Thông tư 01-NV-1974 hướng dẫn việc tổ chức chôn cất, quản lý hồ sơ, di sản và mồ mả của cán bộ, đồng bào miền Nam chết ở trên miền Bắc do Bộ Nội vụ ban hành

Số hiệu 01-NV
Ngày ban hành 05/01/1974
Ngày có hiệu lực 20/01/1974
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ
Người ký Lê Đình Thiệp
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01-NV

Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 1974 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN VIỆC TỔ CHỨC CHÔN CẤT, QUẢN LÝ HỒ SƠ, DI SẢN VÀ MỒ MẢ CỦA CÁN BỘ, ĐỒNG BÀO MIỀN NAM CHẾT Ở TRÊN MIỀN BẮC

Theo chỉ thị số 1000-TTg ngày 09-05-1956 của Thủ tướng Chính phủ thì cán bộ đồng bào miền Nam chết ở trên miền Bắc phải được chôn cất chu đáo, mồ mã phải được xây đắp và  bảo quản. Tài sản của người chết còn để lại phải được xử lý đúng chính sách và tổ chức bảo quản tốt để giao trả cho gia đình khi có điều kiện.

Thi hành chỉ thị trên, từ trước đến nay, các cơ quan có trách nhiệm (Uỷ ban Thống nhất, Bộ Nội vụ) đã có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể.

Để thuận tiện cho việc tra cứu và thi hành, Bộ Nội vụ tổng hợp lại những điều đã được quy định trước đây, đồng thời có hướng dẫn, bổ sung thêm một số điểm cần thiết cho phù hợp với tình hình thực tế.

I. TRỢ CẤP CHÔN CẤT

Cán bộ, đồng bào miền Nam chết ở trên miền Bắc được trợ cấp như sau:

1. Cán bộ, công nhân, nhân viên là người miền Nam ở trong biên chế Nhà nước, khi chết được cấp chôn cất theo chế độ bảo hiễm xã hội hiện hành (trợ cấp chôn cất là 150 đồng).

2. Đồng bào tập kết ra Bắc, hoặc ra Bắc sau ngày hòa bình lập lại (từ năm 1954 trở đi), quân nhân phục vụ, cán bộ, công nhân , nhân viên là người  miền Nam đã ra ngoài biên chế Nhà nước, người miền Nam hưởng chế độ an dưỡng phân tán hoặc tập trung, học sinh miền Nam không có bố mẹ ở miền Bắc kể cả các cháu còn bé, chưa đến tuổi đi học, khi chết được trợ cấp chôn cất để chi phí các khoản cần thiết như : áo quan, vải liệm, hương, nến, hoa, thuê xe tang, chụp ảnh, xây mộ, dựng bia v.v....

Các khoản chi phí trên được thanh toán theo thực chi, nhưng tối đa không quá 150 đồng và do quỹ cứu tế xã hội của địa phương đài thọ.

3. Những người sau đây không thuộc đối tượng trợ cấp chôn cất:

- Đồng bào miền Nam ra Bắc làm ăn trước ngày hoà bình lập lại ( từ tháng 8- 1954 trở về trước);

- Con của cán bộ, đồng bào miền Nam hy sinh đẻ tại miền Bắc;

- Người miền Bắc vào Nam làm ăn, sau khi hoà bình lập lại được trở về miền Bắc.

II. TỔ CHỨC CHÔN CẤT, XÂY ĐẮP, TU SỬA MỒ MẢ QUẢN LÝ HỒ SƠ TỬ VONG

1. Việc chôn cất:

Cán bộ, đồng bào miền Nam thuộc cơ quan, địa phương nào quản lý, khi chết cơ quan, địa phương đó chịu trách nhiệm tổ chức chôn cất và thi hành các chế độ.

Trường hợp người chết ở bệnh viện mà chưa rõ thuộc cơ quan, địa phương nào quản lý thì bệnh viện có trách nhiệm tổ chức chôn cất theo chế độ quy định ở điểm 2, mục I như trên.

Các cơ quan trung ương kể cả các đơn vị trực thuộc, khi có người miền Nam chết, sau khi chôn cất xong phải bàn giao mồ mả lại cho địa phương quản lý.

Ty, Sở thương binh và xã hội là cơ quan quản lý theo dõi có nhiệm vụ giúp Ủy ban Hành chính tỉnh, thành về việc tổ chức bảo quản mồ mả người miền Nam ở tại địa phương.

Trong phạm vi địa phương, tuỳ từng nơi có nhiều người miền Nam ở tập trung, Ủy ban Hành chính tỉnh, thành xét lập nghĩa trang riêng cho người miền Nam. Nếu chưa lập nghĩa trang riêng thì có thể sử dụng nghĩa trang chung của địa phương,  nhưng nên dành một khu vực riêng để chôn cất người miền Nam.

Mồ mả ở tản mạn cần được chuyển vào nghĩa trang của người miền Nam hoặc một địa điểm thuận tiện cho việc bảo quản.

Kinh phí xây đắp, tu sửa mồ mả, xây dựng nghĩa trang do quỹ cứu tế  của địa phương đài thọ.

2. Hồ sơ tử vong:

 Đối với đồng bào, cán bộ miền Nam không có thân nhân ở miền Bắc (thân nhân gần nhất: vợ hoặc chồng, con đẻ, bố mẹ đẻ). Khi chết, cơ quan, địa phương nơi trực tiếp quản lý người ấy phải lập hồ sơ tử vong gồm có:

- 1 giấy báo tử ghi rõ ngày, tháng và lý do chết,

- 1 bản tóm tắt lý lịch,

-  1 bản kiểm kê tài sản,

[...]