BỘ
NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-NV
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 01 năm 1968
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 111B-CP NGÀY 20-7-1967 CỦA HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC BỔ SUNG MỘT SỐ CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI QUÂN NHÂN, CÁN BỘ,
CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC VÀ NHÂN DÂN BỊ THƯƠNG, BỊ HY SINH HOẶC MẤT SỨC LAO ĐỘNG
TRONG KHI LÀM NHIỆM VỤ CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
Ngày 20-07-1967, Hội đồng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 111B-CP bổ sung một số chế độ đãi ngộ đối
với quân nhân, cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân bị thương, bị hy sinh
hoặc mất sức lao động trong khi làm nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước.
Để thi hành nghị định nói trên,
sau khi đã trao đổi thống nhất ý kiến với các Bộ Quốc phòng, Công an, Lao động,
Tài chính, Y tế và Tổng công đoàn Việt Nam, Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể những điểm
sau đây:
A. ĐIỀU KIỆN
ĐƯỢC HƯỞNG CHẾ ĐỘ VÀ NỘI DUNG CHẾ ĐỘ
I. Đối với
quân nhân mất sức lao động.
Theo điều 22 của Điều lệ tạm thời
về các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân trong khi ốm đau, bị thương, mất sức
lao động, về hưu hoặc chết… ban hành theo Nghị định số 161-CP ngày 30-10-1964,
những quân nhân đã công tác liên tục từ 5 năm trở lên, vì ốm đau, vì bị thương,
vì già yếu nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp thương tật,
phải ra ngoài quân đội, thì được hưởng trợ cấp mất sức lao động.
Nay, để phù hợp với hoàn cảnh
chiến tranh, Hội đồng Chính phủ đã quy định bổ sung chế độ trợ cấp mất sức lao
động nói trên như sau: “Những quân nhân vì phải hoạt động ở những chiến trường
khó khăn, gian khổ hoặc trải qua nhiều trận chiến đấu ác liệt mà bị mất sức lao
động, phải xuất ngũ về với gia đình thì tuy chưa đủ 5 năm công tác liên tục trở
lên cũng được hưởng trợ cấp mất sức lao động như những quân nhân có đủ 5 năm
công tác liên tục…”.
Vậy, Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể
như sau:
1. Những quân nhân phải
hoạt động ở những chiến trường khó khăn, gian khổ là những quân nhân:
- Hoạt động ở những nơi tiếp tế
khó khăn, nên mức sinh hoạt thường xuyên quá thấp, do đó sức khỏe bị giảm sút
nhiều.
- Hoạt động ở những nơi có nhiều
yếu tố phát sinh bệnh.
- Đảm nhiệm những công việc thường
xuyên quá căng thẳng, làm cho sức khỏe bị giảm sút nhiều.
2. Những quân nhân phải
trải qua nhiều trận chiến đấu ác liệt mà bị mất sức lao động là những quân nhân
tuy không bị thương, hoặc chỉ bị thương nhẹ, nhưng do ảnh hưởng của bom đạn địch
trong chiến đấu (bị sức ép, bị chấn động thần kinh…) mà bị bệnh và đi đến mất sức
lao động.
Những quân nhân bị mất sức lao động
nói trên được hưởng các chế độ đãi ngộ như những quân nhân có đủ 5 năm công tác
liên tục mà bị mất sức lao động, cụ thể là:
a) Được trợ cấp hàng tháng bằng
35% lương chính hoặc sinh hoạt phí, nếu mức trợ cấp đó chưa đủ 15 đồng thì được
nâng lên bằng 15 đồng. Riêng đối với quân nhân miền Nam tập kết, mức trợ cấp thấp
nhất là 25 đồng một tháng.
b) Được hưởng các quyền lợi khác
theo thông tư hướng dẫn của Liên bộ Quốc phòng – Công an - Nội vụ số 104-LB/QP
ngày 12-04-1965.
Còn những quân nhân khác, nếu
chưa đủ 5 năm công tác liên tục và không có đủ điều kiện quy định trong nghị định,
mà bị mất sức lao động thì chỉ được hưởng trợ cấp một lần theo điều 27 của Điều
lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân trong khi ốm đau, bị
thương, mất sức lao động, về hưu hoặc chết…
II. Đối với
công nhân, viên chức Nhà nước.
1. Công nhân, viên chức
Nhà nước thuộc đối tượng được hưởng chế độ đãi ngộ quy định trong nghị định là
những công nhân, viên chức Nhà nước có đủ điều kiện để hưởng chế độ trợ cấp tai
nạn lao động quy định tại Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với
công nhân, viên chức Nhà nước.
2. Công nhân, viên chức
Nhà nước được hưởng chế độ đãi ngộ quy định ở điều 3 của nghị định là những
công nhân, viên chức bị thương hoặc chết trong những trường hợp dưới đây:
a) Vì trực tiếp tham gia chiến đấu
với địch (đã nói rõ ở điều 6 của nghị định).
b) Vì điều kiện sản xuất, công
tác không thể rời vị trí của mình trong khi địch đến bắn phá. Được coi là không
thể rời vị trí sản xuất, công tác của mình trong khi địch đến bắn phá, trường hợp
được tổ chức phân công trước để làm những công việc cấp thiết và phải đảm bảo đến
cùng công việc đó trong khi địch bắn phá, hoặc trường hợp thay thế đồng đội bị
hy sinh để làm những công việc đó trong khi địch, bắn phá. Thí dụ: nhân viên phụ
trách tổng đài điện thoại, trong khi địch bắn phá, vẫn phải đảm bảo hệ thống
thông tin, công nhân phụ trách lò hơi của nhà máy điện phải đảm bảo điều hòa nhiệt
độ để bảo vệ nhà máy; nhân viên phát tin của đài phát thanh trong khi đang phát
tin; công nhân giao thông vận tải đang làm việc ở bến phà hoặc chở phà qua
sông…
Trường hợp không được phân công ở
lại khi địch bắn phá, thì dù đang làm nhiệm vụ, mà địch đến bắn phá, thì dù
đang làm nhiệm vụ, mà địch đến bắn phá, không kịp vào hầm trú ẩn, cũng không được
coi là trường hợp không thể rời vị trí của mình.
Những công nhân, viên chức Nhà
nước có đủ điều kiện quy định nói trên được hưởng chế độ đãi ngộ như đối với
dân quân, tự vệ là công nhân, viên chức Nhà nước bị thương hoặc chết trong chiến
đấu; cụ thể là:
a) Nếu bị thương thì được coi là
“công nhân, viên chức bị thương vì tham gia chiến đấu” (trường hợp tham gia chiến
đấu) hoặc “công nhân, viên chức bị thương trong khi làm nhiệm vụ” (trường hợp
không thể rời vị trí của mình) và được hưởng các quyền lợi như đối với dân
quân, tự vệ là công nhân, viên chức Nhà nước bị thương trong chiến đấu quy định
trong điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân trong khi ốm
đau, bị thương, mất sức lao động, về hưu hoặc chết… và thông tư số
51-TTg/NC ngày 17-05-1965 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường chấp hành
các chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
b) Nếu chết và được xác nhận là
liệt sĩ, thì gia đình được trợ cấp chôn cất và hưởng tiền tuất theo thông tư hướng
dẫn của Bộ Nội vụ và Tổng công đoàn Việt-nam số 02-TT/LB ngày 12-01-1966, và được
hưởng các quyền lợi khác theo chính sách chung đối với gia đình liệt sĩ.
III. Đối với
cán bộ xã.
1. Những cán bộ xã tham
gia dân quân, tự vệ xã, nếu bị thương hoặc chết vì trực tiếp tham gia chiến đấu,
thì đương nhiên được hưởng chế độ đãi ngộ đối với dân quân, tự vệ bị thương hoặc
chết trong chiến đấu quy định trong Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ đối
với quân nhân… và Thông tư số 51-TTg/NC ngày 17-05-1965.
2. Những cán bộ xã không ở
trong lực lượng dân quân, tự vệ xã, nếu đang giữ những chức vụ chủ chốt ở xã
như quy định ở điều 4 của nghị định, mà bị thương hoặc chết vì trực tiếp tham
gia chiến đấu với địch, thì được hưởng chế độ đãi ngộ như đối với dân quân, tự
vệ bị thương hoặc chết trong chiến đấu; cụ thể là:
a) Nếu bị thương thì được gọi là
cán bộ xã bị thương vì tham gia chiến đấu và được hưởng các quyền lợi như đối với
dân quân, tự vệ bị thương trong chiến đấu quy định trong Điều lệ tạm thời về
các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân… và Thông tư số 51-TTg/NC ngày 17-05-1965.
b) Nếu chết và được xác nhận và
liệt sĩ, thì:
- Về trợ cấp chôn cất: trường hợp
chết ở xã, gia đình được trợ cấp 50 đồng và Ủy ban hành chính xã có trách nhiệm
tổ chức chôn cất chu đáo; trường hợp chết ở bệnh xá, bệnh viện, gia đình được trợ
cấp 100 đồng.
- Về trợ cấp tiền tuất: gia đình
được trợ cấp một lần hoặc hàng tháng như đối với gia đình của dân quân tự vệ chết
trong chiến đấu quy định trong Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ đối với
quân nhân… và Thông tư số 51-TTg/NC ngày 17-05-1965, và được hưởng các quyền lợi
khác theo chính sách chung đối với gia đình liệt sĩ.
Những cán bộ xã khác không ở
trong lực lượng dân quân, tự vệ xã và không giữ những chức vụ quy định ở điều 4
của nghị định, mà bị thương hoặc chết vì trực tiếp tham gia chiến đấu với địch,
thì được hưởng chế độ đãi ngộ như đối với dân công thời chiến bị thương hoặc chết,
nói ở phần V “Đối với nhân dân” dưới đây.
IV. Đối với
dân công.
Điều 7 của nghị định quy định những
dân công phục vụ các chiến trường quan trọng bị thương hoặc chết do địch bắn
phá trong khi đang làm nhiệm vụ, thì được hưởng chế độ đãi ngộ như đối với dân
quân, tự vệ bị thương hoặc chết trong chiến đấu.
1. Điều kiện được hưởng chế độ:
a) Dân công phục vụ các chiến
trường quan trọng là những dân công được huy động đi theo bộ đội phục vụ dài
ngày ở các chiến trường lớn (có quy định riêng), do Bộ Quốc phòng quản lý và sử
dụng để làm những việc như vận tải vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men,
quân trang, quân dụng tiếp tế cho bộ đội, vận chuyển thương binh…
Bị thương hoặc chết do địch bắn
phá trong khi đang làm nhiệm vụ là bị thương hoặc chết vì bom đạn địch, trong
phạm vi được tổ chức phân công và trong giới hạn được coi là chiến trường quan
trọng, kể cả lúc đi đường và lúc nghỉ ngơi đã được định trước.
Những trường hợp bị thương hoặc
chết do tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, do thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật tại
chiến trường hoặc do địch bắn phá ngoài phạm vi giới hạn được coi là chiến trường
quan trọng, thì không được hưởng chế độ theo quy định của nghị định.
Những dân công phục vụ ở những
chiến trường khác, những dân công được huy động ngắn ngày, phục vụ tại địa
phương, những dân công phục vụ giao thông, thủy lợi… bị thương hoặc chết thì
không được hưởng chế độ đãi ngộ theo quy định của nghị định, mà chỉ hưởng chế độ
theo quy định của Điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng dân công thời chiến.
2. Chế độ được hưởng:
Dân công phục vụ các chiến trường
quan trọng bị thương hoặc chết do địch bắn phá trong khi đang làm nhiệm vụ, được
hưởng như sau:
a) Nếu bị thương thì được gọi là
dân công bị thương trong khi phục vụ chiến trường và được hưởng các quyền lợi
như đối với dân quân, tự vệ bị thương trong chiến đấu quy định trong Điều lệ tạm
thời về các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân… và Thông tư số 51-TTg/NC ngày
17-05-1965.
b) Nếu chết và được xác nhận là
liệt sĩ, thì:
- Đơn vị quản lý và sử dụng dân
công có trách nhiệm tổ chức chôn cất chu đáo tùy theo hoàn cảnh cụ thể của từng
nơi, từng lúc và được chỉ những khoản cần thiết như vải liệm, áo quan, hương nến,
v.v…
- Gia đình được trợ cấp tiền tuất
một lần hoặc hàng tháng và được hưởng các quyền lợi khác như đối với gia đình của
dân quân, tự vệ chết được xác nhận là liệt sĩ.
V. Đối với
nhân dân.
Những công dân (không kể tuổi)
không ở trong lực lượng dân quân, tự vệ, bị thương hoặc chết vì trực tiếp tham
gia chiến đấu với địch, thì được hưởng chế độ đãi ngộ như đối với dân công bị
thương hoặc chết quy định ở chương II của điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng
dân công thời chiến; cụ thể là:
1. Nếu bị thương thì được
điều trị tại bệnh viện, bệnh xá nơi gần nhất, ngoài trợ cấp tiền ăn 6 hào một
ngày, nếu có đề nghị của y sĩ, bác sĩ điều trị, còn được bồi dưỡng thêm mỗi
ngày từ 2 đến 4 hào, tùy theo bệnh trạng.
Sau khi điều trị, nếu thương tật
có ảnh hưởng nhiều đến sức lao động, thì:
a) Được Ủy ban hành chính xã và
hợp tác xã sắp xếp công việc làm thích hợp để bảo đảm mức sống bình thường.
b) Tùy theo thương tật nhẹ hoặc
nặng, được trợ cấp một lần như sau:
- Bị thương tật nhẹ (tỷ lệ
thương tật từ 5% đến 40%), được trợ cấp từ 60 đồng đến 120 đồng.
- Bị thương tật trung bình (tỷ lệ
thương tật từ 41% đến 70%), được trợ cấp từ 130 đồng đến 220 đồng.
- Bị thương tật nặng (tỷ lệ
thương tật từ 71% đến 100%), được trợ cấp từ 230 đồng đến 270 đồng.
c) Nếu sau này, đời sống gặp nhiều
khó khăn thì được Ủy ban hành chính xã và hợp tác xã giúp đỡ. Sau khi địa
phương đã hết sức giúp đỡ rồi mà đời sống vẫn chưa giải quyết được, thì đề nghị
lên cấp trên trích quỹ xã hội trợ cấp thêm.
2. Nếu chết và được xác
nhận là liệt sĩ, thì:
- Về trợ cấp chôn cất: trường hợp
chết ở xã, gia đình được trợ cấp 50 đồng và Ủy ban hành chính xã có trách nhiệm
tổ chức chôn cất chu đáo; trường hợp chết ở bệnh xá, bệnh viện, gia đình được
trợ cấp 100 đồng.
- Về trợ cấp tiền tuất: gia đình
được trợ cấp một lần 300 đồng và được hưởng các quyền lợi khác theo chính sách
chung đối với gia đình liệt sĩ.
B. ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH
I. Thủ tục
thi hành.
1. Đối với quân nhân chưa
đủ 5 năm công tác liên tục bị mất sức lao động, đơn vị quản lý quân nhân phải lập
hồ sơ gồm có:
- Quyết định xuất ngũ và hưởng
trợ cấp mất sức lao động, trong đó có chứng nhận tình hình hoạt động ở chiến
trường khó khăn, gian khổ hoặc trải qua nhiều trận chiến đấu ác liệt.
- Phiếu cá nhân.
- Giấy khám sức khỏe.
Hồ sơ sẽ chuyển cho Ủy ban hành
chính tỉnh, thành phố nơi đơn vị đóng quân để xét, cấp “phiếu lĩnh trợ cấp tạm
thời”, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố sẽ làm phiếu lập sổ gửi kèm hồ sơ về bộ
Nội vụ để xét cấp sổ trợ cấp mất sức lao động chính thức.
2. Đối với công nhân,
viên chức Nhà nước, cán bộ xã, dân công và nhân dân bị thương, phải có hồ sơ
thương tật gồm có:
- Giấy chứng nhận bị thương;
- Biên bản khám xét thương tật.
Giấy chứng nhận bị thương phải
do cấp có thẩm quyền dưới đây cấp:
- Đối với công nhân, viên chức
Nhà nước thì do thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp trực thuộc các ngành ở trung
ương (như vụ, cục, viện, xí nghiệp, trường học…), thủ trưởng các cơ quan cấp
khu, tỉnh, thành phố (như ty, sở, chi cục, ban…) hay Ủy ban hành chính huyện cấp,
tùy theo công nhân, viên chức làm việc ở cơ quan, xí nghiệp của trung ương, của
khu, tỉnh, thành phố hay của huyện;
- Đối với cán bộ thoát ly của
các đoàn thể nhân dân thì do ban chấp hành các đoàn thể từ cấp huyện trở lên cấp;
- Đối với cán bộ xã và nhân dân
thì do Ủy ban hành chính huyện hoặc tương đương cấp;
- Đối với dân công phục vụ chiến
trường thì do đơn vị quân đội quản lý và sử dụng dân công từ cấp trung đoàn hoặc
cấp tương đương trở lên cấp;
Hồ sơ sẽ chuyển cho Ủy ban hành
chính tỉnh, thành phố nơi cơ quan, đơn vị đóng hoặc nơi quản lý cán bộ xã và
nhân dân bị thương để xét và ra quyết định trợ cấp thương tật. Đối với những
trường hợp được hưởng trợ cấp hàng thàng, thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
cấp “phiếu lĩnh trợ cấp tạm thời”, rồi làm phiếu lập sổ gửi kèm hồ sơ về Bộ Nội
vụ để xét cấp sổ trợ cấp thương tật chính thức. Đối với những trường hợp chi được
hưởng trợ cấp một lần, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trả nợ cấp một lần, rồi
gửi hồ sơ về Bộ Nội vụ để lưu, theo dõi.
3. Đối với công nhân, viên chức
Nhà nước, cán bộ xã, dân công và nhân dân chết được xác nhận là liệt sĩ, phải
có hồ sơ theo đúng thủ tục quy định trong Thông tư số 29-NV ngày 06-11-1967 của
Bộ Nội vụ.
Hồ sơ gồm có:
- Giấy chứng nhận hy sinh và đề
nghị xác nhận liệt sĩ.
- Giấy chứng nhận tình hình thân
nhân của liệt sĩ.
Hồ sơ sẽ chuyển cho Ủy ban hành
chính tỉnh, thành phố nơi gia đình liệt sĩ cư trú để xét và ra quyết định trợ cấp
tiền tuất. Nếu gia đình liệt sĩ đủ điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng, thì Ủy
ban hành chính tỉnh, thành phố cấp “phiếu lĩnh trợ cấp tạm thời” và trả tiền trợ
cấp lần đầu và hàng tháng cho gia đình, rồi làm phiếu lập sổ gửi kèm hồ sơ về Bộ
Nội vụ để xét cấp sổ trợ cấp tiền tuất chính thức. Nếu gia đình liệt sĩ không đủ
điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng, thì Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố cấp
tiền tuất một lần cho gia đình, rồi gửi hồ sơ về Bộ Nội vụ để lưu, theo dõi.
II. Kinh
phí trả trợ cấp.
Các khoản trợ cấp mất sức lao động
cho quân nhân chưa đủ 5 năm công tác liên tục, trợ cấp thương tật một lần và
hàng tháng, trợ cấp tiền tuất một lần và hàng tháng cho công nhân, viên chức
Nhà nước, cán bộ xã, dân công và nhân dân bị thương hoặc chết nói trong thông
tư này đều do ngân sách Nhà nước đài thọ. Các khoản kinh phí do Bộ Tài chính
chuyển cho Bộ Nội vụ để phân phối cho các địa phương.
III. Thời
gian thi hành.
Các chế độ đãi ngộ đối với quân
nhân, công nhân, viên chức Nhà nước, cán bộ xã, dân công và nhân dân quy định
trong Nghị định số 111B-CP được thi hành thống nhất kể từ ngày 01
tháng 8 năm 1967.
Những quân nhân dân chưa đủ 5
năm công tác liên tục bị mất sức lao động, những công nhân, viên chức Nhà nước,
cán bộ xã, dân công và nhân dân bị thương hoặc chết từ ngày 05-08-1964 (ngày mà
đế quốc Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Băc đến ngày
31-07-1967, có đủ điều kiện quy định trong nghị định đều được xét giải quyết
quyền lợi, riêng những người được trợ cấp hàng tháng thì được hưởng trợ cấp từ
ngày 01-08-1967 trở đi.
Trong khi thi hành các chế độ
nói trên, nếu có gì mắc mứu, khó khăn, đề nghị các cơ quan, đoàn thể, các đơn vị
quân đội và các địa phương kịp thời phản ánh cho Bộ Nội vụ để nghiên cứu giải
quyết.
Bộ Nội vụ xin gửi kèm theo thông
tư này bán phụ lục tóm tắt các chế độ đãi ngộ đối với dân quân, tự vệ bị thương
hoặc chết trong chiến đấu và một số mẫu giấy tờ .
|
K.T. BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Lê Tất Đắc
|