HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 96-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 4 năm 1991
|
QUYẾT
ĐỊNH
BAN HÀNH BẢN QUY ĐỊNH VỀ KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
VÀ
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT, NHẬP KHẨU
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng
bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ kết luận của Hội đồng bộ trưởng về quản lý xuất, nhập khẩu trong phiên họp
ngày 13-14 tháng 1 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.
Ban hành kèm theo Quyết định này Bản quy định về khuyến
khích sản xuất hàng xuất khẩu và quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu để áp dụng từ
năm 1991.
Điều 2.
Bộ Thương nghiệp chủ trì cùng các Bộ, ngành có liên quan
tổng kết công tác quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu trong các năm 1986-1991,
chuẩn bị văn bản trình Hội đồng bộ trưởng xem xét quyết định việc sửa đổi, bổ
sung các chính sách, cơ chế quản lý có liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất,
nhập khẩu trong điều kiện mới.
Điều 3.
Chậm nhất sau 15 ngày quyết định này được ban hành, Bộ
trưởng Bộ Thương nghiệp chịu trách nhiệm phối hợp với Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn
việc thi hành Quyết định này.
Điều 4.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng
các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này.
QUY ĐỊNH
VỀ KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU
(Ban hành kèm theo Quyết định số 96-HĐBT ngày 5-4-1991của Hội đồng Bộ trưởng)
Để khuyến khích sản xuất hàng xuất
khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng pháp luật, bảo đảm phát triển sản
xuất hàng hoá theo định hướng kế hoạch Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng quy định
như sau:
I. ĐỐI VỚI
CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT.
1. Các cơ sở sản xuất hàng xuất
khẩu hoặc hàng cần khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu chiếm từ 70% trở lên
trong tổng doanh thu thì được miễn thuế doanh thu theo điều 2 Luật thuế doanh
thu. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì cùng các Bộ Thương nghiệp và Tài chính
bàn thống nhất quy định danh mục mặt hàng cần khuyến khích sản xuất thay thế
hàng nhập khẩu này trong từng thời kỳ. Nếu các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và
sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu dùng lợi nhuận thu được để đầu tư thì được
giảm thuế lợi tức như điều 22 Luật thuế lợi tức.
2. Ngân hàng sẽ ưu tiên cho vay
vốn hoặc bảo lãnh việc vay vốn đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và sản
xuất hàng cần khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu để đầu tư chiều sâu, nhập vật
tư, nguyên liệu... theo yêu cầu của sản xuất.
3. Những cơ sở có sản xuất sản
phẩm mới thuộc nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của nền kinh tế, nếu gặp khó khăn do
đổi mới công nghệ và mới bắt đầu sản xuất thì được xét trợ giá bảo đảm sản xuất
không bị lỗ.
Nguồn để thực hiện việc trợ giá
xuất khẩu gồm quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước và quỹ hỗ trợ kinh doanh của
các ngành hàng sản xuất - xuất, nhập khẩu.
Bộ Thương nghiệp phối hợp với Bộ
Tài chính, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước xây dựng cơ chế hình thành, sử dụng và
nguyên tắc trợ giá từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước trình Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng phê duyệt trong quý 2 năm 1991.
Các hiệp hội xuất khẩu tự tổ chức,
xây dựng quy chế lập và điều hành quỹ hỗ trợ kinh doanh các ngành hàng.
4. Những chủ đầu tư phục hồi những
khoảnh đất hoang, rừng hoang, đồi trọc để xây dựng các vùng chuyên canh các loại
cây, con, các loại đặc sản để xuất khẩu thì được ưu tiên hưởng quyền sử dụng ruộng
đất và miễn giảm thuế theo Luật định.
5. Các tổ chức sản xuất hàng xuất
khẩu có đủ điều kiện về kinh doanh xuất, nhập khẩu thì Bộ Thương nghiệp phải ưu
tiên cấp giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu với mức lệ phí thấp nhất.
6. Bộ Thương nghiệp có trách nhiệm
phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ tài chính và các ngành liên quan xây
dựng sớm chính sách ưu đãi đối với ngành gia công hàng xuất khẩu trình Thường vụ
Hội đồng bộ trưởng chậm nhất vào giữa quý 2 năm 1991.
7. Đối với các xí nghiệp có nước
ngoài đầu tư, hợp tác liên doanh sản xuất hàng xuất khẩu, nhất là các vùng
chuyên canh xuất khẩu thì thực hiện theo Luật đầu tư và các văn bản khác có
liên quan.
II. ĐỐI VỚI
CÁC ĐƠN VỊ KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU.
1. NGân hàng sẽ ưu tiên xem xét
cho vay vốn để các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu mua hàng hoá xuất khẩu, nhất
là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, hàng nông sản trong những thời vụ thu hoạch
.
2. Được giảm hoặc miễn thuế xuất
khẩu đối với từng loại hàng xuất khẩu phù hợp với Luật thuế; những mặt hàng sản
xuất ở nước ta xuất sang Lào và Campuchia được miễn thuế xuất khẩu, những mặt
hàng sản xuất tại hai nước bạn nhập vào nước ta thì được miễn thuế nhập khẩu.
3. Được ưu tiên cấp giấy phép nhập
khẩu theo hợp đồng các loại thiết bị công nghệ mới để đầu tư cho sản xuất, kể cả
trường hợp chưa có giấy phép kinh doanh nhập khẩu thường xuyên những ngành hàng
đó.
4. Đối với các loại sản phẩm khó
xuất khẩu như hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, hàng công nghiệp tiêu dùng,
thì được xuất khẩu theo phương thức hàng đổi hàng (nêu khách hàng yêu cầu) và
được hưởng mức thuế suất nhập khẩu tối thiểu đối với những lô hàng được phép nhập
khẩu.
5. Được ưu tiên xuất khẩu những
mặt hàng do các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu tự đầu tư vốn hoặc liên doanh,
hợp tác với các cơ sở sản xuất sản xuất ra hoặc gia công.
6. Đối với các mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu (gạo, cao su, cà phê, gỗ, hải sản) và các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
(xăng dầu, phân bón, sắt thép, bông xơ), ngoài các tổ chức kinh doanh do trung
ương quản lý được phép kinh doanh, Bộ Thương nghiệp bàn với các địa phương có sản
xuất các mặt hàng này để tập trung đầu mối xuất nhập khẩu ở tỉnh.
Đối với các tổ chức kinh doanh
khác đã được cấp giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu có thể xuất, nhập khẩu
các mặt hàng chủ yếu nói trên với điều kiện:
+ Về xuất khẩu:
- Phải có đầu tư, ứng vốn trước
cho các cơ sở sản xuất chính ở địa phương có hợp đồng kinh tế dài hạn với sự
xác nhận của Uỷ ban Nhân dân tỉnh; hạn ngạch xuất khẩu nằm trong hạn ngạch đã
phân bổ cho địa phương có cơ sở liên doanh, hợp tác.
- Giá xuất khẩu những mặt hàng
này phải theo sự hướng dẫn của Bộ Thương nghiệp.
+ Về nhập khẩu:
- Hàng nhập về phục vụ sản xuất
của địa phương, ngành thì phải bán cho các đơn vị được phép kinh doanh nội địa
các mặt hàng đó, không bán cho tư nhân.
- Phải có khả năng thanh toán
hàng nhập khẩu và phải theo sự hướng dẫn của Bộ Thương nghiệp về giá nhập khẩu.
7. Khuyến khích các đơn vị kinh
doanh xuất, nhập khẩu liên doanh hợp tác với các đơn vị sản xuất, chế biến hàng
xuất khẩu và với khách hàng lớn ở nước ngoài. Nếu các tổ chức tín dụng hùn vốn
hoặc mua cổ phần của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu thì thực hiện theo điều
28 Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính.
8. Khuyến khích các đơn vị kinh
doanh xuất, nhập khẩu liên kết với các đơn vị sản xuất, tổ chức các cửa hàng giới
thiệu và bán sản phẩm của ta ở nước ngoài, tổ chức và tham gia các hội chợ, triển
lãm quốc tế trong và ngoài nước, làm đại lý bán hàng cho nước ngoài theo hướng
dẫn của Bộ Thương nghiệp.
III. QUẢN
LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT, NHẬP KHẨU
1. Sau khi cân đối khả năng sản
xuất và nhu cầu tiêu dùng (kể cả nhu cầu dự trữ lưu thông từng loại sản phẩm),
các Bộ, các ngành, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung
ương xây dựng kế hoạch xuất, nhập khẩu hàng năm, xác định rõ số lượng hoặc trị
giá những mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ yếu.
Trên cơ sở đó, Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước cùng Bộ Thương nghiệp cân đối và tổng hợp, trình Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng kế hoạch xuất, nhập khẩu của cả nước.
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng uỷ
nhiệm Bộ trưởng Bộ thương nghiệp công bố danh mục hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu;
mặt hàng tạm ngừng xuất khẩu, mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Khuyến khích xuất
khẩu tối đa những mặt hàng ngoài danh mục hàng cấm hoặc tạm ngừng xuất khẩu và
hàng xuất khẩu quản lý bằng hạn ngạch.
- Bộ trưởng Bộ Tài chính kịp thời
trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng những điểm bổ sung điều chỉnh trong biểu thuế
xuất, nhập khẩu theo tinh thần Chỉ thị này.
- Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng chỉ
giao chỉ tiêu các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu có ý nghĩa quyết định đến việc
bảo đảm các cân đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân và mặt hàng thuộc Hiệp định
Chính phủ về giao hàng và trả nợ nước ngoài trên cơ sở Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
cùng các ngành và địa phương đã tính toán chặt chẽ, chính xác. Những chỉ tiêu
mà đầu năm 1991, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Thương nghiệp thông báo chỉ là
tạm giao nay cần phải điều chỉnh lại theo đúng chủ trương của Hội đồng Bộ trưởng
là gom đầu mối xuất, nhập khẩu, hàng thuộc Hiệp định Chính phủ về giao, nhận hoặc
trả nợ nước ngoài thì phải giao cho những tổ chức kinh tế của trung ương có
kinh doanh mặt hàng đó. Nếu giao phân tán, xảy ra tình trạng tranh mua tranh
bán làm thiệt hại lợi ích của đất nước thì Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước phải chịu
trách nhiệm.
- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cần
bàn thống nhất với Bộ Thương nghiệp và các Bộ quản lý sản xuất trình Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng phê duyệt tổng hạn ngạch những mặt hàng quản lý xuất, nhập khẩu
bằng hạn ngạch.
- Sau khi Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng phê duyệt, Bộ Thương nghiệp có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước phân bổ hạn ngạch xuất, nhập khẩu, kể cả những hàng lâm sản cho các Bộ,
các ngành và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, bảo
đảm đúng đối tượng, phục vụ việc mở rộng sản xuất và kinh doanh có hiệu quả. Nếu
để xảy ra tình trạng mua bán hạn ngạch (quota) dưới bất kỳ hình thức nào thì Bộ
Thương nghiệp và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước phải chịu trách nhiệm.
- Đối với những mặt hàng xuất,
nhập khẩu khác, Bộ Thương nghiệp có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước và các Bộ liên quan, căn cứ quan hệ cung cầu của thị trường từng thời
kỳ và yêu cầu bảo vệ sản xuất trong nước để xem xét, kịp thời chấp thuận kế hoạch
đăng ký xuất, nhập khẩu của các ngành và địa phương.
2. Việc tiêu thụ sản phẩm của
các xí nghiệp có nước ngoài đầu tư hoặc liên doanh hợp tác thì phải theo đúng
giấy phép đầu tư đã cấp. Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư cùng Bộ Thương
nghiệp hướng dẫn việc cấp giấy phép xuất, nhập khẩu đối với các xí nghiệp liên
doanh đầu tư; nghiêm cấm việc mang danh nghĩa góp vốn đầu tư, liên doanh để đưa
các mặt hàng cấm nhập, hạn chế nhập và hàng nhập có hạn ngạch vào tiêu thụ trái
phép.
3. Việc thanh toán tiền hàng xuất,
nhập khẩu và các loại dịch vụ thu ngoại tệ đều phải thông qua các ngân hàng được
phép kinh doanh ngoại tệ và chấp hành đúng chế độ quản lý ngoại tệ của Nhà nước.
4. Tất cả các đơn vị kinh tế chỉ
được kinh doanh xuất, nhập khẩu sau khi Bộ Thương nghiệp cấp giấy phép. Giấy
phép này có giá trị kinh doanh thường xuyên. Các đơn vị kinh tế phải đóng lệ
phí khi được cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu. Mức lệ phí do Bộ Thương nghiệp
và Bộ Tài chính xây dựng trình Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng quyết định.
Các đơn vị kinh doanh xuất, nhập
khẩu tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh, tự chủ về tài chính. Bộ Thương
nghiệp có trách nhiệm thường xuyên thông báo giá mua, giá bán trên thị trường
quốc tế và hướng dẫn giá xuất khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa một số mặt
hàng chủ yếu.
Giao Bộ Thương nghiệp xây dựng
Quy chế quản lý hợp đồng xuất, nhập khẩu trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phê
duyệt trước khi ban hành.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN.
1. Bộ Thương nghiệp có trách nhiệm
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao theo Nghị định số 387-HĐBT ngày 9
tháng 11 năm 1990 của Hội đồng bộ trưởng, xác định rõ chức năng nhiệm vụ của
các tổ chức kinh doanh thuộc Bộ, chấn chỉnh tổ chức quản lý hoạt động xuất, nhập
khẩu; đồng thời phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước và các ngành liên quan khác hướng dẫn thi hành và tổ chức
triển khai thực hiện Quyết định này.
2. Các Bộ, Uỷ ban Nhà nước, các
cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc
khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm túc bản Quy
định này.