Quyết định 3443/2005/QĐ-UBND về chương trình hành động của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW 2005 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

Số hiệu 3443/2005/QĐ-UBND
Ngày ban hành 22/12/2005
Ngày có hiệu lực 01/01/2006
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh An Giang
Người ký Lê Minh Tùng
Lĩnh vực Thể thao - Y tế,Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3443/2005/QĐ-UBND

Long Xuyên, ngày 22 tháng 12 năm 2005

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA UBND TỈNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 46-NQ/TW NGÀY 23 THÁNG 02 NĂM 2005 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE NHÂN DÂN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới;

Căn cứ Quyết định số 243/2005/QĐ-TTg ngày 05 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới;

Xét đề nghị của Giám đốc Sở Y tế,

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký.

Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các cơ quan, ban ngành tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. Sở Y tế chịu trách nhiệm theo dõi việc thực hiện và định kỳ báo cáo UBND tỉnh, Bộ Y tế về tình hình thực hiện Chương trình hành động này./.

 

 

Nơi nhận:
- VPCP, Bộ Y tế;
- Cục Kiểm tra văn bản – Bộ Tư pháp;
- TT: TU, HĐND, UBND tỉnh;
- Ban Tuyên giáo TU, UBMTTQ tỉnh; Tỉnh Đoàn TN, Hội LHPN tỉnh,
- Ban VHXH-HĐND tỉnh;
- UBND huyện, thị xã, thành phố;
- Các Sở, Ban ngành tỉnh;
- LĐVP;
- Lưu: VT, VX, TH, KT, XDCB.

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Lê Minh Tùng

 

CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA UBND TỈNH AN GIANG

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 46-NQ/TW NGÀY 23 THÁNG 02 NĂM 2005 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE NHÂN DÂN TRONG TÌNH HÌNH MỚI
(Ban hành kèm theo Quyết định số 3443 /2005/QĐ-UBND ngày 22 tháng 12 năm 2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang)

Trong những năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân tại tỉnh ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế được củng cố ổn định, chất lượng hoạt động được nâng cao. Các chỉ số sức khỏe của cộng đồng được nâng lên, đến năm 2004 tuổi thọ trung bình cuả người dân An Giang đã tăng từ 69,8 tuổi (năm 1999) lên 72 tuổi; tỷ lệ tử vong mẹ giảm từ 129/100.000 (năm 1996) xuống còn 40/100.000 trẻ đẻ sống; tỷ suất tử vong trẻ em dưới 01 tuổi giảm từ 32,5/1.000 (năm 2000) xuống còn 27/1.000, tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 48/1.000 (năm 2000) xuống còn 34/1.000; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi đã giảm từ 32% (năm 2000) xuống còn 26,7%. Công tác Dân số, gia đình và trẻ em tiếp tục được đẩy mạnh, duy trì tốt xu thế giảm sinh, chất lượng dân số được tăng lên, tỷ lệ phát triển dân số năm 2004 giảm còn 1,39%. Công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh được quan tâm, nhiều dịch bệnh nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi: Tả, Sốt rét, Dịch hạch... các bệnh Bại liệt, thiếu vitamine A cơ bản đã được thanh toán, uốn ván sơ sinh đã được loại trừ. Công tác phòng chống các bệnh xã hội được triển khai thực hiện đạt hiệu quả. Chất lượng khám chữa bệnh có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành y tế được quan tâm đầu tư và có nhiều cải thiện. Đã từng bước phát triển chuyên khoa hoá bệnh viện tuyến tỉnh và phát triển y tế phổ cập tại tuyến cơ sở. Xã hội hoá các hoạt động y tế đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 15 bệnh viện công lập (4 bệnh viện tỉnh, 11 bệnh viện huyện), 11 phòng khám đa khoa khu vực và 154 Trạm Y tế xã), số giường bệnh công lập là 2.554 giường (gồm các bệnh viện tỉnh, huyện, phòng khám đa khoa khu vực), tăng 469 giường so với năm 2000, giai đoạn 2001- 2005 bình quân tăng gần 94 giường bệnh/năm. Số giường bệnh công lập bình quân/10.000 dân tăng 1,58 giường/10.000 dân (năm 2000: 10,03; năm 2005:11,61). Tuy nhiên so với bình quân chung của cả nước thì tỷ lệ giường bệnh/10.000 dân của An Giang vẫn còn thấp (bình quân chung của cả nước năm 2004 là 17,15 giường/10.000 dân ).

Giai đoạn 2001-2004, nhân lực ngành Y tế tiếp tục phát triển khá ổn định về số lượng cũng như chất lượng. So với năm 2000, số cán bộ y tế tăng 10,03% (tăng 397 người), số Bác sĩ tăng 12,69% (tăng 90 BS). Trình độ cán bộ tăng dần qua các năm, tỷ lệ cán bộ sau đại học phát triển khá nhanh so với giai đoạn 1996-2000, đến nay đã có 356 CB sau đại học. Từ năm 2000 đã đạt 3 chỉ tiêu nhân lực y tế xã: 100% Trạm Y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản, 100% xã có bác sĩ, 100% khóm ấp có nhân viên y tế khóm ấp hoạt động. Tỷ lệ bác sỹ/10.000 dân (tính cả y tế tư nhân): 4,12; tỷ lệ Dược sĩ đại học/10.000 dân (tính cả y tế tư nhân): 0,42, còn thấp so với tỷ lệ chung cuả toàn quốc (tỷ lệ chung cuả toàn quốc năm 2004 là 5,87 BS/10.000 dân và 0,78 DSĐH/10.000 dân. Tỷ lệ chung cuả vùng đồng bằng sông Cửu Long là 3,66 BS/10.000 dân và 0,17 DSĐH/10.000 dân). Tỷ lệ Điều dưỡng ở trình độ sơ học chiếm gần 28% so với tổng số Điều dưỡng và Y sỹ làm hạn chế đến công tác chăm sóc người bệnh toàn diện, một số chuyên khoa sâu vẫn còn chậm phát triển cán bộ sau đại học: tâm thần, da liễu, miễn dịch-di truyền, ung bướu, nội tiết, dinh dưỡng, lão học, huyết học truyền máu, vi ký sinh, y học cổ truyền, bác sĩ gia đình...Hệ y tế dự phòng vẫn còn thiếu cán bộ đại học, một số vùng khó khăn: An Phú, Tri Tôn, Tịnh biên...vẫn còn thiếu cán bộ, tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ y học cổ truyền ở cơ sở y tế nhà nước còn thấp. Chất lượng đội ngũ cán bộ y tế đặc biệt là ở cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, một số cán bộ lãnh đạo ở y tế cơ sở còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ; quản lý bệnh viện.

Về ngân sách nhà nước đầu tư cho y tế tăng không đáng kể (từ năm 1997 đến 2003 chỉ tăng 1,28 lần), ngân sách y tế bình quận đầu người dân năm 2004 An Giang là 44.800 đồng, vùng đồng bằng sông Cửu Long là 45.300 đồng, thấp hơn so với các vùng khác (Duyên hải Nam trung bộ: 63.200 đồng, Tây nguyên: 75.900 đồng, Đông Nam bộ: 97.500 đồng, Đông Bắc: 65.100 đồng, Tây Bắc: 62.600 đồng, đồng bằng sông Hồng: 48.100 đồng, Bắc Trung bộ: 48.600 đồng).

Cơ sở vật chất ngành Y tế nhiều nơi xuống cấp, chưa được đầu tư xây dựng nâng cấp kịp thời, nhiều bệnh viện tỉnh, huyện đã trở nên quá tải.

Tuy đã giải quyết được khá nhiều các vấn đề y tế cơ bản, nhưng ngành Y tế vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, đó là: một số dịch bệnh lưu hành ở địa phương: Sốt xuất huyết, Tả, Thương hàn, Kiết lỵ...luôn có nguy cơ tiềm ẩn; tình hình HIV/AIDS chưa được khống chế tốt (tỷ lệ nhiễm HIV lũy tích đến tháng 30/9/2005 là 300,54/100.000 dân); tỷ lệ nhiễm lao của người dân còn cao (tỷ lệ bệnh nhân lao năm 2004 là 250,94/100.000 dân). Tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát tốt. Tuy đã thoát khỏi tình trạng thiếu I ốt nặng, An Giang vẫn chưa đạt được mục tiêu kế hoạch giai đoạn 01 của Dự án phòng chống bướu cổ. Ý thức và thói quen tự bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cuả một bộ phận dân cư chưa cao; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế còn thấp (chỉ đạt 9,4% dân số); chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt là y tế chuyên sâu chưa đáp ứng nhu cầu nhân dân trong tình hình mới; Y học cổ truyền chưa được phát huy đúng mức. Nguyên nhân chính là do công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực y tế còn nhiều hạn chế, chưa huy động tốt nguồn lực xã hội đầu tư cho y tế. Các chính sách về y tế chậm được đổi mới. Mặt khác do dân số đông, tình trạng ô nhiễm môi trường chưa được giải quyết triệt để, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, công tác truyền thông giáo dục sức khỏe chưa được sâu rộng.

Thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 cuả Bộ Chính trị; Chương trình hành động cuả Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị số 35-CT/TU ngày 09/9/2005 của Tỉnh ủy An Giang; Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW cuả Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới cụ thể như sau:

I. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung:

Cụ thể hoá các nhiệm vụ.giải pháp để thực hiện tốt Nghị quyết 46-NQ/TW; Chương trình hành động cuả Chính phủ, Chỉ thị số 35-CT/TU cuả Tỉnh ủy; xác định và phân công rõ trách nhiệm cuả các Sở, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức thực hiện; đưa Nghị quyết cuả Đảng vào cuộc sống, tạo bước chuyển biến rõ rệt trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Giảm tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh, tật, nâng cao sức khỏe, tăng tuổi thọ, góp phần cải thiện chất lượng giống nòi, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế xã hội cuả địa phương và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Mục tiêu cụ thể:

a/- Các chỉ tiêu chung về sức khỏe cần đạt được vào năm 2010:

- Tuổi thọ trung bình tăng lên 73 tuổi;

[...]