Nghị quyết 62/NQ-HĐND năm 2017 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 tỉnh Hòa Bình

Số hiệu 62/NQ-HĐND
Ngày ban hành 08/12/2017
Ngày có hiệu lực 01/01/2018
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Hòa Bình
Người ký Trần Đăng Ninh
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐNG NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 62/NQ-HĐND

Hòa Bình, ngày 08 tháng 12 năm 2017

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2018 TỈNH HÒA BÌNH

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
KHÓA XVI, KỲ HỌP THỨ 5

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

n cứ Quyết định số 917/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tng thphát triển kinh tế xã hội tỉnh Hòa Bình đến năm 2020;

Căn cứ Chỉ thị 29/CT-TTg ngày 05 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018;

Trên cơ sở Nghị quyết số 121/2015/NQ-HĐND ngày 03 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hòa Bình về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020;

Xét Tờ trình số 124/TTr-UBND ngày 14 tháng 11 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tnh Hòa Bình về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018; Báo cáo thẩm tra của các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thống nhất đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, với các nội dung chủ yếu sau:

Năm 2017, trong bối cảnh chung của cả nước: Kinh tế có nhiều khởi sắc, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, số lượng doanh nghiệp thành lập mới, tổng vốn đầu tư nước ngoài, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đều tăng cao. Kinh tế - xã hội của tỉnh Hòa Bình có bước phát triển tích cực, có 23/24 chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) đạt khoảng 9,46%; tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 3.020 tỷ đồng; trong năm có thêm 06 xã về đích, nâng tổng số xã về đích nông thôn mới là 45 xã, trong đó số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới là 41 xã, trung bình 1 xã đạt 13,6 tiêu chí (theo tiêu chí mới là 12 tiêu chí); đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 2,82% (còn khoảng 18,72%); sự nghiệp giáo dục và đào tạo đạt được nhiều thành quả tích cực; hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch sôi nổi, phong phú; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được bảo đảm.

Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững, sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, môi trường đầu tư chưa được cải thiện nhiều, còn 01/24 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch đề ra. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Phân bvà giải ngân một số nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn chậm. Việc xử lý những dự án đầu tư không hiệu quả còn chậm; số lượng dự án và số vốn đầu tư đăng ký còn hạn chế, nhiều chỉ tiêu đạt thấp so với lộ trình Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Giải quyết việc làm chưa đạt mục tiêu, chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các khu vực sản xuất còn chậm. Công tác khám, chữa bệnh tuyến cơ sở còn hạn chế (đặc biệt trong năm đã xảy ra sự cố y khoa nghiêm trọng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình làm 08 người tử vong). Kết quả cải cách hành chính ở một số cơ quan, đơn vị vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; chỉ snăng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đứng vị trí thp. Một số vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, chưa được giải quyết dứt điểm, tội phạm về trật tự xã hội và tình hình tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp.

Tình hình trên có nguyên nhân khách quan là do kinh tế thế giới tiếp tục ẩn chứa nhiều rủi ro, thách thức, giá nông sản, thực phẩm, nhất là giá thịt lợn giảm mạnh, thiên tai, bão lũ gây thiệt hại nặng nề đến hạ tầng kỹ thuật và đời sống nhân dân. Bên cnh đó nguyên nhân chủ quan là những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của các cấp các ngành thiếu quyết liệt, chất lượng công vụ một số ngành, địa phương chưa cao có tác động không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2017.

Điều 2. Quyết định Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 với các nội dung như sau:

I. Mục tiêu tổng quát

Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế tnh. Tiếp tục tập trung cải thiện môi trường đầu tư, quan tâm phát triển và hỗ trợ doanh nghiệp. Chú trọng thu hút, huy động các nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật; đy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ, du lịch, nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp gn với xây dựng nông thôn mới. Phát triển văn hóa và thực hiện tt các mục tiêu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đi khí hậu, chủ động phòng chng thiên tai. Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng công vụ; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường công tác phòng, chng tham nhũng. Mở rộng và nâng cao hiệu qu công tác đi ngoại và hội nhập quốc tế; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.

II. Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu

1. Các chtiêu kinh tế

1.1. Tăng trưởng kinh tế là 9,5%; trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4,5%; công nghiệp - xây dựng tăng 13%; dịch vụ tăng 8,3%;

1.2. Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 19,86%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 49,04%; khu vực dịch vụ chiếm 31,1%;

1.3. GRDP bình quân đầu người 45 triệu đồng (tương đương 2.050 USD);

1.4. Tổng đầu tư toàn xã hội 13.260 tỷ đồng;

1.5. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 3.325 tỷ đồng;

1.6. Giá trị xuất khẩu đạt 610 triệu USD; giá trị nhập khẩu đạt 490 triệu USD;

1.7. Số doanh nghiệp, hợp tác xã thành lập, hoạt động có hiệu quả tăng 20% so với năm 2017;

1.8. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm tăng dưới 5%;

1.9. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 20,97%;

1.10. Có 06 xã về đích nông thôn mới. Theo tiêu chí mới, số tiêu chí nông thôn mới trung bình trên 1 xã tăng 1 tiêu chí (đến hết năm 2018 trung bình 1 xã đạt 13 tiêu chí).

[...]