Nghị quyết 185/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2023

Số hiệu 185/NQ-CP
Ngày ban hành 07/11/2023
Ngày có hiệu lực 07/11/2023
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Phạm Minh Chính
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 185/NQ-CP

Hà Nội, ngày 07 tháng 11 năm 2023

 

NGHỊ QUYẾT

PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 10 NĂM 2023

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở thảo luận của các Thành viên Chính phủ, ý kiến các đại biểu dự họp và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2023, tổ chức vào ngày 04 tháng 11 năm 2023.

QUYẾT NGHỊ:

I. Về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2023; phương hướng, nhiệm vụ tháng 11 và thời gian tới

Chính phủ thống nhất đánh giá: Trong tháng 10, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột ở Ucraina, gần đây xảy ra xung đột tại Dải Gaza; bất ổn chính trị, kinh tế, xã hội, rủi ro về nợ công, chuỗi cung ứng hàng hóa chiến lược, các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản gia tăng; thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu ảnh hưởng nặng nề đến các quốc gia, khu vực. Ở trong nước, nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức do tác động của các yếu tố bất lợi bên ngoài và hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm, trong khi nền kinh tế có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn, khả năng cạnh tranh, sức chống chịu của còn hạn chế.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, sâu sát, kịp thời, khoa học của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự chung sức, đồng lòng của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương nắm chắc tình hình, bám sát thực tiễn, tập trung thực hiện quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực; nỗ lực ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình quốc tế, trong nước; chủ động xử lý những nhiệm vụ, công việc thường xuyên ngày càng nhiều; đồng thời tích cực giải quyết những vấn đề tồn đọng kéo dài và những vấn đề phát sinh. Nhờ vậy, tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước và đạt những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.

Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 10 tháng tăng 3,2% so với cùng kỳ. Thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất tiếp tục xu hướng giảm; bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Thu ngân sách nhà nước 10 tháng ước đạt 86,3% dự toán năm. Nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách Nhà nước được kiểm soát tốt. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 10 tăng 4,1% so với tháng 9 và tăng 5,6% so với cùng kỳ; cán cân thương mại hàng hóa tháng 10 xuất siêu ước đạt 3 tỷ USD, tính chung 10 tháng ước xuất siêu 24,61 tỷ USD. Giải ngân vốn đầu tư công đạt 56,74% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn 5,4% so với cùng kỳ (51,34%) và số tuyệt đối cao hơn khoảng 104 nghìn tỷ đồng.

Cả ba khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều duy trì đà phục hồi, phát triển tốt. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 4,1% so với cùng kỳ, trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,9%; nhiều địa bàn công nghiệp trọng điểm phục hồi, duy trì đã tăng nhanh. Nông nghiệp phát triển ổn định; xuất khẩu gạo trong 10 tháng đạt 7,1 triệu tấn với kim ngạch gần 4 tỷ USD, tăng 17% về sản lượng, 35 % về giá trị so với cùng kỳ; an ninh lương thực, an ninh năng lượng được bảo đảm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10 tăng 7% so với cùng kỳ, tính chung 10 tháng tăng 9,4%. Khách quốc tế đến nước ta tháng 10 đạt 1,1 triệu lượt người, tính chung 10 tháng đạt gần 10 triệu lượt người, gấp 4,2 lần cùng kỳ, vượt chỉ tiêu 8 triệu lượt khách của cả năm 2023. Trong tháng 10, có hơn 15,4 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và 5,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; tính chung 10 tháng, có 183,6 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 2,9% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký 10 tháng đạt 25,76 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ; FDI thực hiện 10 tháng đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ. Nhiều công trình, dự án trọng điểm được khởi công, đưa vào khai thác và phát huy hiệu quả. Các tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá tích cực về triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng; công tác an sinh xã hội được triển khai kịp thời, hiệu quả; bảo đảm ổn định đời sống của Nhân dân. Thị trường lao động tiếp tục phục hồi; số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 10 tăng so với tháng trước. Hoạt động văn hóa, thể thao được quan tâm, đẩy mạnh. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được chú trọng; bảo đảm cung ứng đủ thuốc, trang thiết bị y tế; đã điều chỉnh dịch COVID-19 từ bệnh truyền nhiễm nhóm A chuyển sang nhóm B. Tình trạng thiếu giáo viên ở một số địa phương tiếp tục được tháo gỡ.

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật được đẩy mạnh; tích cực, chủ động chuẩn bị, bảo đảm tiến độ, chất lượng các báo cáo, đề án, dự án Luật, Nghị quyết trình Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII và Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV. Công tác quy hoạch được đẩy nhanh; đã hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt 106/111 quy hoạch, trong đó đã phê duyệt 36 quy hoạch (18 quy hoạch cấp quốc gia, 01 quy hoạch vùng, 17 quy hoạch tỉnh). Công tác cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, chuyển đổi số được đẩy mạnh; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường; kỷ luật, kỷ cương hành chính và hoạt động công vụ được tiếp tục chấn chỉnh. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả và đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo thuận lợi, cơ hội mới cho phát triển đất nước và tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra. Lạm phát tuy được kiểm soát nhưng vẫn chịu nhiều sức ép. Thu ngân sách nhà nước giảm so cùng kỳ. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản đã được cải thiện nhưng chưa đạt như kỳ vọng; cơ cấu lại một số tổ chức tín dụng yếu kém còn chậm; tăng trưởng tín dụng thấp; sức hấp thụ vốn của nền kinh tế khó khăn; nợ xấu có xu hướng gia tăng. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; có nguy cơ thiếu hụt lao động tại các thành phố lớn, các khu vực động lực tăng trưởng. Một số cơ quan, địa phương giải ngân vốn đầu tư công dưới mức trung bình. Thủ tục hành chính một số lĩnh vực còn rườm rà; một số cơ chế, chính sách, quy định pháp luật chậm được sửa đổi phù hợp. Thiên tai, lũ lụt, sạt lở đất, sạt lở bờ sông, bờ biển... diễn biến phức tạp, gây thiệt hại về người và tài sản, nhất là tại một số tỉnh miền Trung. Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo. Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn tiềm ẩn yếu tố phức tạp; xảy ra một số vụ tai nạn giao thông, cháy nổ nghiêm trọng ...

Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó đoán định; xung đột tại một số khu vực diễn biến phức tạp, kéo dài; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại; rủi ro về tài chính, tiền tệ, bất động sản, thách thức về an ninh năng lượng, lương thực gia tăng. Ở trong nước, khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ và thuận lợi; sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp khó khăn, nhiều ngành, lĩnh vực chịu tác động lớn từ thị trường bên ngoài; thiên tai, bão lũ, sạt lở đất... tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và đời sống Nhân dân.

Trước tình hình đó, trong tháng 11 và thời gian còn lại của năm 2023, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục theo dõi sát tình hình, phối hợp chặt chẽ, thực hiện linh hoạt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực; phát huy đoàn kết, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, kiên quyết khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, tâm lý e dè, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám tham mưu, đề xuất xử lý công việc; kịp thời, bình tĩnh, sáng suốt trong phản ứng chính sách; tranh thủ, tận dụng các yếu tố thuận lợi, cơ hội thị trường trong nước, quốc tế dịp cuối năm; hóa giải các khó khăn, thách thức; tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; tập trung thực hiện các giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ 3 động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), các động lực mới về kinh tế xanh, kinh tế số kinh tế tuần hoàn, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra năm 2023; trong đó chú trọng các nội dung sau:

1. Các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao:

a) Tiếp tục khẩn trương tổ chức phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả Kết luận số 64-KL/TW ngày 18 tháng 10 năm 2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 - 2024 và Kết luận số 65-KL/TW ngày 21 tháng 10 năm 2023 của Bộ Chính trị về đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Kế hoạch tài chính quốc gia, Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2021 - 2025; các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Quyết liệt thực hiện các giải pháp cụ thể, khả thi, hiệu quả để phấn đấu hoàn thành cao nhất 05/15 chỉ tiêu dự kiến khó đạt của năm 2023. Chủ động rà soát, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm năm 2023, nhất là những đề án, văn bản trong Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao sắp đến hạn hoặc đã quá hạn nhưng chưa hoàn thành; nghiên cứu, lựa chọn các nội dung, vấn đề lớn, quan trọng, cấp thiết, liên quan đến lĩnh vực của bộ, cơ quan, địa phương để đăng ký vào Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2024.

b) Theo dõi sát diễn biến tình hình để phân tích, dự báo, kịp thời điều hành, chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp phù hợp ứng phó với các vấn đề phát sinh trong trường hợp vượt thẩm quyền.

c) Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với điều hành chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác. Quyết liệt tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Theo dõi chặt chẽ tình hình thị trường bất động sản, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chủ động ứng phó với các diễn biến, yếu tố rủi ro có thể phát sinh. Triển khai hiệu quả các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã được ban hành. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước, khai thác các nguồn thu còn dư địa, tiềm năng, nâng cao hiệu quả quản lý thu, phấn đấu tăng thu; kiểm soát chi chặt chẽ, tiết kiệm triệt để các khoản chi.

d) Bám sát diễn biến cung cầu thị trường, giá cả, chủ động triển khai chương trình bình ổn thị trường, giá cả, nhất là trong những tháng cuối năm 2023 và dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Thực hiện phương án điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý, các dịch vụ công, nhất là giá điện, giá dịch vụ y tế, giáo dục theo lộ trình, thời điểm, mức độ phù hợp, đúng quy định, sát thực tiễn, bảo đảm vừa thúc đẩy tăng trưởng, sản xuất kinh doanh, vừa kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Nâng cao hiệu quả quản lý thị trường, đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm.

đ) Tập trung thúc đẩy phát triển hiệu quả thị trường trong nước, tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động người “Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các chương trình khuyến mại, hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch, quảng bá sản phẩm, kết nối cung cầu... Mở rộng thị trường xuất khẩu; khai thác, phát huy hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã ký kết; tăng cường đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do mới. Kịp thời thông tin về thị trường, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục thông quan hàng hóa, thúc đẩy phát triển logistics để giảm thời gian, chi phí xuất khẩu.

e) Tập trung rà soát toàn diện các quy định pháp luật, kịp thời phát hiện những quy định bất cập, những vấn đề vướng mắc (xác định rõ nội dung, quy định pháp luật cụ thể bất cập, vướng mắc, thẩm quyền xử lý) để sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Chính phủ. Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật và chịu trách nhiệm về chất lượng, tiến độ các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan mình ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền. Bộ, ngành nào chưa phân công lại cho đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trực tiếp chỉ đạo thì phải phân công lại trước ngày 20 tháng 11 năm 2023 và báo cáo lại Thủ tướng Chính phủ và thông báo cho Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ theo dõi, tổng hợp.

g) Các Bộ tập trung hoàn thiện hồ sơ quy hoạch cấp quốc gia để trình phê duyệt theo đúng quy định, đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ, hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2023. Đối với quy hoạch vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan hoàn thiện nội dung quy hoạch vùng theo quy định trên cơ sở tích hợp các quy hoạch cấp quốc gia đã được phê duyệt hoặc được thẩm định, bảo đảm chất lượng và đẩy nhanh tiến độ, trình phê duyệt trước ngày 31 tháng 12 năm 2023. Đối với quy hoạch tỉnh, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đẩy nhanh việc hoàn thiện quy hoạch theo quy định, đảm bảo chất lượng và tiến độ. Các quy hoạch tỉnh đã thẩm định xong khẩn trương trình phê duyệt ngay trong tháng 11 năm 2023; các quy hoạch tỉnh chưa trình thẩm định thì tập trung nguồn lực để sớm hoàn thiện hồ sơ trình thẩm định theo quy định, phấn đấu trình phê duyệt trong tháng 12 năm 2023. Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo trước ngày 20 tháng 11 năm 2023.

h) Quyết liệt hơn nữa trong việc cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, làm tăng chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tập trung rà soát, nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính và chất lượng dịch vụ công trực tuyến, nhất là các dịch vụ công cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia, dịch vụ công thiết yếu theo Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); đẩy mạnh kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Trên cơ sở thực tiễn triển khai tại thành phố Hà Nội và Bộ Thông tin và Truyền thông, khuyến khích các bộ, ngành, địa phương thực hiện thuê dịch vụ công nghệ thông tin từ nguồn chi thường xuyên trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước giao để kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn về kinh phí thực hiện Đề án 06.

i) Theo dõi, nắm bắt tình hình lao động, việc làm, có giải pháp hỗ trợ kịp thời người lao động chuyển đổi nghề bền vững, bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động. Tổ chức triển khai công tác chuẩn bị, chăm lo đời sống người dân trong dịp giáp hạt và Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024.

k) Tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; chủ động, sẵn sàng triển khai công tác cứu hộ, cứu nạn, kịp thời hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, sạt lở đất, bờ sông, bờ biển, ổn định đời sống.

[...]