Nghị định 75/1998/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 36/CP về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và an toàn giao thông đô thị

Số hiệu 75/1998/NĐ-CP
Ngày ban hành 26/09/1998
Ngày có hiệu lực 11/10/1998
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Phan Văn Khải
Lĩnh vực Xây dựng - Đô thị,Giao thông - Vận tải

CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 75/1998/NĐ-CP

Hà Nội, ngày 26 tháng 9 năm 1998

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 75/1998/NĐ-CP NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM 1998 VỀ BỔ SUNG, SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 36/CP NGÀY 29 THÁNG 5 NĂM 1995 CỦA CHÍNH PHỦ

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1.- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 36/CP ngày 29 tháng 5 năm 1995 của Chính phủ như sau:

1. Khoản 2, 4, 5 Điều 5 được sửa đổi như sau:

"2. Quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, tổ chức kiểm tra, giám sát chất lượng kỹ thuật các loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, cấp Chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo định kỳ.

4. Quản lý việc đào tạo, cấp Giấy phép lái xe và Chứng chỉ học luật giao thông cho những người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.

5. Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra hệ thống thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trong toàn quốc. Xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền đối với những vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị".

2. Khoản 3 Điều 6 được sửa đổi như sau:

"3. Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc soạn thảo tài liệu và tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về trật tự an toàn giao thông".

Điều 2.- Sửa đổi, bổ sung một số điều của "Điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị" ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 29 tháng 5 năm 1995 của Chính phủ như sau:

1. Bổ sung khoản 4 vào Điều 1:

"4. Người điều khiển phương tiện và chủ sở hữu phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về phương tiện tham gia giao thông".

2. Khoản 2 Điều 2 được sửa đổi như sau:

"2. Phương tiện tham gia giao thông là các loại xe cơ giới, xe thô sơ và các thiết bị chuyên dùng lưu thông trên đường bộ, đường đô thị".

3. Khoản 3 Điều 3 được sửa đổi như sau:

"3. Người điều khiển các xe khác khi qua nơi xẩy ra tai nạn có trách nhiệm chở người bị thương đến nơi cấp cứu gần nhất. Các xe ưu tiên không bắt buộc phải chở người bị thương đến nơi cấp cứu".

4. Khoản 7 Điều 3 được sửa đổi như sau:

"7. Uỷ ban nhân dân địa phương nơi tai nạn xảy ra phải tổ chức cứu chữa giúp đỡ người bị nạn, bảo vệ hiện trường và kịp thời thông báo cho Cảnh sát giao thông đến lập biên bản, xử lý hậu quả. Trường hợp nạn nhân bị chết, sau khi cơ quan công an đã hoàn tất các thủ tục theo quy định của pháp luật và đồng ý cho chôn cất thì Uỷ ban nhân dân địa phương có trách nhiệm tổ chức chôn cất người bị nạn".

5. Khoản 1 Điều 6 được sửa đổi như sau:

"1. Người tham gia giao thông khi phát hiện công trình giao thông đường bộ có biểu hiện không đảm bảo an toàn giao thông, phải có nghĩa vụ đặt báo hiệu tạm thời và tìm cách báo cho đơn vị quản lý giao thông đường bộ hoặc cơ quan nhà nước có trụ sở gần nhất; các cơ quan nhà nước khi nhận được tin báo phải có trách nhiệm thông báo ngay đến cơ quan quản lý giao thông đường bộ để khắc phục kịp thời".

6. Điểm 1 Điều 13 được sửa đổi như sau:

"1. Đối với các loại xe cơ giới (kể cả moóc kéo theo xe cơ giới):

a. Có đủ hệ thống hãm (chân và tay) có hiệu lực theo quy định.

b. Có đủ đèn chiếu sáng (gần và xa), đèn soi biển số, đèn báo hãm, đèn tín hiệu các loại theo tiêu chuẩn quy định.

c. Có đủ còi với âm lượng tiêu chuẩn.

[...]