CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
75/1998/NĐ-CP
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 9 năm 1998
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 75/1998/NĐ-CP NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM 1998 VỀ BỔ
SUNG, SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 36/CP NGÀY 29 THÁNG 5 NĂM 1995 CỦA
CHÍNH PHỦ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.-
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 36/CP ngày 29 tháng 5 năm 1995 của
Chính phủ như sau:
1. Khoản 2, 4, 5 Điều 5 được sửa
đổi như sau:
"2. Quy định tiêu chuẩn kỹ
thuật, tổ chức kiểm tra, giám sát chất lượng kỹ thuật các loại phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ, cấp Chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường theo định kỳ.
4. Quản lý việc đào tạo, cấp Giấy
phép lái xe và Chứng chỉ học luật giao thông cho những người điều khiển phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ.
5. Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra
hệ thống thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trong toàn quốc. Xử lý vi phạm
hành chính theo thẩm quyền đối với những vi phạm về trật tự an toàn giao thông
đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị".
2. Khoản 3 Điều 6 được sửa đổi
như sau:
"3. Phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan trong việc soạn thảo tài liệu và tuyên truyền, phổ biến, hướng
dẫn pháp luật về trật tự an toàn giao thông".
Điều 2.-
Sửa đổi, bổ sung một số điều của "Điều lệ trật tự an toàn giao thông đường
bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị" ban hành kèm theo Nghị định số
36/CP ngày 29 tháng 5 năm 1995 của Chính phủ như sau:
1. Bổ sung khoản 4 vào Điều 1:
"4. Người điều khiển phương
tiện và chủ sở hữu phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về phương
tiện tham gia giao thông".
2. Khoản 2 Điều 2 được sửa đổi
như sau:
"2. Phương tiện tham gia
giao thông là các loại xe cơ giới, xe thô sơ và các thiết bị chuyên dùng lưu
thông trên đường bộ, đường đô thị".
3. Khoản 3 Điều 3 được sửa đổi
như sau:
"3. Người điều khiển các xe
khác khi qua nơi xẩy ra tai nạn có trách nhiệm chở người bị thương đến nơi cấp
cứu gần nhất. Các xe ưu tiên không bắt buộc phải chở người bị thương đến nơi cấp
cứu".
4. Khoản 7 Điều 3 được sửa đổi
như sau:
"7. Uỷ
ban nhân dân địa phương nơi tai nạn xảy ra phải tổ chức cứu chữa giúp đỡ người
bị nạn, bảo vệ hiện trường và kịp thời thông báo cho Cảnh sát giao thông đến lập
biên bản, xử lý hậu quả. Trường hợp nạn nhân bị chết, sau khi cơ quan công an
đã hoàn tất các thủ tục theo quy định của pháp luật và đồng ý cho chôn cất thì
Uỷ ban nhân dân địa phương có trách nhiệm tổ chức chôn cất người bị nạn".
5. Khoản 1 Điều 6 được sửa đổi
như sau:
"1. Người tham gia giao
thông khi phát hiện công trình giao thông đường bộ có biểu hiện không đảm bảo
an toàn giao thông, phải có nghĩa vụ đặt báo hiệu tạm thời và tìm cách báo cho
đơn vị quản lý giao thông đường bộ hoặc cơ quan nhà nước có trụ sở gần nhất;
các cơ quan nhà nước khi nhận được tin báo phải có trách nhiệm thông báo ngay đến
cơ quan quản lý giao thông đường bộ để khắc phục kịp thời".
6. Điểm 1 Điều 13 được sửa đổi
như sau:
"1. Đối với các loại xe cơ
giới (kể cả moóc kéo theo xe cơ giới):
a. Có đủ hệ thống hãm (chân và
tay) có hiệu lực theo quy định.
b. Có đủ đèn chiếu sáng (gần và
xa), đèn soi biển số, đèn báo hãm, đèn tín hiệu các loại theo tiêu chuẩn quy định.
c. Có đủ còi với âm lượng tiêu
chuẩn.
d. Có bộ phận giảm thanh, giảm
khói theo tiêu chuẩn quy định.
đ. Bảo đảm tầm nhìn cho người điều
khiển. Kính chắn gió phải trong suốt, có gương chiếu hậu, có gạt nước mưa.
e. Có hệ thống chuyển hướng có
hiệu lực.
g. Có bánh lốp đúng kích cỡ,
tiêu chuẩn kỹ thuật và áp lực hơi theo quy định cho từng loại xe.
h. Kính cửa ôtô khách phải là loại
kính an toàn".
7. Khoản 2 Điều 18 được sửa đổi
như sau:
"2. Người đứng đầu cơ sở kiểm
định kỹ thuật xe và cán bộ trực tiếp kiểm định kỹ thuật chịu trách nhiệm trước
pháp luật về kết quả kiểm định".
8. Bổ sung khoản 3 và 4 vào Điều
20 như sau:
"3. Tín
hiệu đèn, còi, cờ, màu sơn của các phương tiện cơ giới đường bộ ưu tiên quy định
như sau:
a. Xe chữa cháy: xe sơn màu đỏ,
đèn quay trên nóc xe phát sáng màu đỏ.
b. Xe cứu thương: đèn quay trên
nóc xe phát sáng màu đỏ, trên thành xe có dấu chữ thập màu đỏ.
c. Xe công an: đèn quay trên nóc
xe phát sáng màu xanh, đỏ, cờ hiệu công an cắm ở đầu xe phía bên trái người
lái.
d. Xe quân sự: Cờ hiệu quân sự cắm
ở đầu xe phía bên phải người lái.
Âm lượng còi của từng loại xe
nêu trên do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường quy định.
4. Cấm các loại phương tiện cơ giới
đường bộ không phải loại xe ưu tiên sử dụng còi, đèn ưu tiên quy định ở khoản 3
của điều này".
9. Khoản 3 Điều 21 được sửa đổi
như sau:
"3. Cấm chở trên xe khách
cùng với hành khách các chất độc hại, dễ nổ, dễ bắt cháy, các chất nguy hiểm
khác, súc vật và vật có mùi hôi thối hoặc những chất có ảnh hưởng đến sức khoẻ
của hành khách".
10. Điểm 1 Điều 25 được sửa đổi
như sau:
"1. Trong trường hợp cần
thiết phải được Sở Giao thông vận tải (Giao thông công chính) cho phép".
11. Khoản 1 Điều 26 được sửa đổi
như sau:
"1. Hàng hoá xếp trên xe cơ
giới phải gọn gàng, chằng buộc chắc chắn, không để rơi vãi dọc đường, không kéo
lê trên mặt đường và không gây cản trở cho việc điều khiển xe. Không được xếp
hàng quá bề rộng thùng xe, chiều dài hàng không được xếp thừa ra sau thùng xe
trên 10% chiều dài toàn bộ xe.
Mô tô, xe máy và xe đạp không được
xếp hàng hoá hành lý vượt quá bề rộng đèo hàng về mỗi bên 0,30 mét, vượt quá
chiều cao tính từ mặt đất là 2 mét, vượt quá phía sau đèo hàng là 0,50 mét; khi
chuyên chở các loại bình khí nén, bình gas bằng mô tô, xe máy và xe đạp phải chằng
buộc chắc chắn, bảo đảm an toàn".
12. Điểm c Điều 29 được sửa đổi
như sau:
"c. Không
có đủ các loại giấy tờ quy định như:
- Giấy chứng nhận đăng ký xe.
- Giấy phép lái xe (nếu điều khiển
xe quy định phải có Giấy phép lái xe).
- Giấy chứng nhận kiểm định an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (nếu loại xe yêu cầu phải có)".
13. Điều 30 được sửa đổi như
sau:
"Điều 30.- Trường hợp làm mất
hoặc hư hỏng Giấy phép lái xe mà có đủ chứng cứ là bị mất, bị hư hỏng, không bị
tước, không bị tạm giữ sẽ được xét cấp lại".
14. Điểm a Điều 37 được sửa đổi,
bổ sung như sau:
"a. Điều kiện xe chạy sau
vượt xe chạy trước.
Xe chạy sau chỉ được phép vượt
xe chạy trước khi:
- Không có chướng ngại vật ở
phía trước;
- Không có xe chạy ngược chiều đến;
- Xe chạy trước không có báo hiệu
định vượt xe khác;
- Người lái xe phải báo hiệu bằng
còi hoặc đèn khi xin vượt xe chạy trước. Khi xe chạy trước đã tránh về bên phải
và làm hiệu cho phép vượt thì người lái xe chạy sau mới được cho xe mình vượt
lên về phía bên trái của xe chạy trước".
15. Điều 38 được sửa đổi một điểm
sau (các quy định khác của Điều này vẫn giữ nguyên):
"Xe xuống dốc phải nhường
đường cho xe lên dốc".
16. Điểm k Điều 39 được sửa đổi
như sau:
"k. Khi xe bị hỏng hoặc để
rơi hàng hoá xuống đường ảnh hưởng đến đường giao thông thì người điều khiển phải
tìm mọi biện pháp đưa xe vào sát lề đường bên phải và thu dọn ngay hàng hoá rơi
vãi".
17. Điểm a Điều 42 được sửa đổi
như sau:
"a. Những xe ô tô sau đây là
xe ưu tiên và được quyền ưu tiên đi trước các loại xe khác khi qua đường giao
nhau theo thứ tự:
1. Xe chữa cháy đi đến nơi cháy
để làm nhiệm vụ.
2. Xe quân sự, xe công an đi làm
nhiệm vụ khẩn cấp.
3. Xe cứu thương đang chở bệnh
nhân cấp cứu hoặc đi đón bệnh nhân cấp cứu.
4. Xe hộ đê, xe thực hiện nhiệm
vụ chống lụt bão khẩn cấp.
5. Đoàn xe có cảnh sát đi trước
dẫn đường.
6. Xe đảm bảo giao thông khẩn cấp.
7. Đoàn xe tang".
18. Điểm b Điều 44 được sửa đổi
như sau:
"b. Khi lên, xuống phà và
đang ở trên phà mọi người trên xe phải xuống xe trừ người điều khiển xe và người
mắc bệnh không thể đi được".
19. Bổ sung điểm i vào Điều 45
như sau:
"i. Đối với xe kéo moóc thì
tổng trọng tải của xe phải lớn hơn tổng trọng tải của moóc, phải có hệ thống
hãm có hiệu lực cho moóc".
20. Khoản 1 Điều 52 được sửa đổi
như sau:
"1. Các
loại xe phải chạy đúng luồng, tuyến quy định. Nếu vì lý do đặc biệt cần đi vào
khu vực cấm, đường cấm phải có giấy phép của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương". 21. Điều 56 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Điều 56.
1. Cấm xe đạp, xe máy, xe mô tô
lạng lách, đánh võng gây nguy hiểm cho người đi đường.
2. Cấm đua xe khi chưa được phép
của Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
3. Cấm sử dụng ô dù che mưa, che
nắng hoặc sử dụng điện thoại di động khi điều khiển xe đạp, mô tô, xe máy.
4. Mô tô, xe máy, xe đạp khi chạy
từ trong ngõ, hẻm, đường hẹp, trong nhà ra đường chính, từ phà lên phải nhường
đường cho các loại phương tiện và người đi bộ từ bất kỳ hướng nào".
22. Điều 57 được sửa đổi như
sau:
"Điều 57.- Người điều khiển
xe đạp phải chấp hành các quy định sau đây:
1. Không được đi xe ở những khu
vực và đường có biển cấm xe đạp;
2. Khi điều khiển xe đạp trên đường:
không được buông cả hai tay hoặc kéo xe khác, không được phóng nhanh vượt ẩu hoặc
có hành động khác gây nguy hiểm, không được đi hàng ngang từ 3 xe trở lên, cấm
rẽ trái hoặc phải trước đầu xe cơ giới;
3. Chỉ được dừng hoặc đỗ xe sát
lề đường hay vỉa hè, ở những nơi quy định phải dừng lại, không được đỗ hoặc dừng
xe ở những nơi làm cản trở giao thông;
4. Chỉ được chở một người phía
sau và một trẻ em dưới 7 tuổi (do người lớn bế hoặc có ghế ngồi riêng) hoặc hai
người lớn khi một người lớn không có khả năng ngồi một mình do điều kiện sức
khoẻ;
5. Người điều khiển xe, người được
chở trên xe không được mang vác vật cồng kềnh, không được kéo theo vật gì,
không được dắt súc vật chạy theo;
6. Trẻ em dưới 12 tuổi không được
điều khiển xe đạp có đường kính bánh xe từ 650 mm trở lên;
7. Không được bám vào các xe
khác (kể cả xe đạp khác);
8. Cấm đi xe đạp trên hè phố,
trong vườn hoa, công viên."
Điều 3.-
Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký. Những quy định
trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 4.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức
thi hành Nghị định này. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương căn cứ vào tình hình, đặc điểm của địa phương và thẩm quyền của mình
xây dựng các quy định và kế hoạch thực hiện Nghị định.
Điều 5.-
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quang ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm
thi hành Nghị định này.