Kế hoạch 5024/KH-UBND năm 2016 phát triển chè trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016-2020

Số hiệu 5024/KH-UBND
Ngày ban hành 03/11/2016
Ngày có hiệu lực 03/11/2016
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Phú Thọ
Người ký Nguyễn Thanh Hải
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 5024/KH-UBND

Phú Thọ, ngày 3 tháng 11 năm 2016

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN CHÈ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Căn cứ Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của HĐND tỉnh về cơ chế hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020;

Căn cứ Quyết định số 185/QĐ-UBND ngày 21/01/2016 của UBND tỉnh Phú Thọ về việc duyệt Quy hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản tỉnh Phú Thọ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030;

Căn cứ kết quả phát triển chè giai đoạn 2011 - 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch phát triển chè trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 với những nội dung cụ thể như sau:

Phần I

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN CHÈ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Chương trình phát triển chè giai đoạn 2011 - 2015 là một trong 4 chương trình nông nghiệp trọng điểm của tỉnh đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo: UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch phát triển sản xuất chè tỉnh Phú Thọ đến năm 2020; ban hành Kế hoạch triển khai và chính sách hỗ trợ các chương trình nông nghiệp giai đoạn 2012 - 2015. Chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT tăng cường công tác chỉ đạo phát triển chè (ban hành các văn bản chỉ đạo, xây dựng kế hoạch phát triển chè, kế hoạch trồng cây che bóng cho chè). Các địa phương đã tích cực phối hợp chặt chẽ với ngành nông nghiệp để chỉ đạo đẩy mạnh phát triển chè, một số địa phương đã ban hành chính sách hỗ trợ phát triển chè trên địa bàn. Kết quả phát triển chè giai đoạn 2011 - 2015 như sau:

1. Về sản xuất

- Diện tích, năng suất, sản lượng: Đến năm 2015, diện tích chè toàn tỉnh 16,5 nghìn ha, đạt 107% so với mục tiêu (15,5 nghìn ha); năng suất chè búp tươi bình quân trên diện tích cho sản phẩm đạt 10,1 tấn/ha, đạt 106,4% so với mục tiêu (9,5 tấn/ha); sản lượng chè búp tươi đạt 154,7 nghìn tấn, tăng 19% so với mục tiêu (130 - 135 nghìn tấn). Bên cạnh vùng nguyên liệu chế biến chè đen bước đầu đã hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến chè xanh (trồng bằng các giống LDP1, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên...) tại các huyện: Tân Sơn, Thanh Sơn, Đoan Hùng, Thanh Ba, Phù Ninh, Hạ Hòa. Phú Thọ hiện đứng thứ 4 về diện tích, thứ 3 về sản lượng chè trong số các tỉnh sản xuất chè của cả nước;

- Về kỹ thuật: Trong 5 năm, đã thực hiện trồng mới, trồng lại 2,36 nghìn ha, nâng tỷ lệ diện tích các giống chè mới lên 71,5% (mục tiêu 70%). Tăng cường ứng dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất chè như: Thiết kế đồi chè chống xói mòn; trồng cây che bóng, bón phân cân đối, quản lý dịch hại tổng hợp IPM, mở rộng diện tích sản xuất chè theo quy trình an toàn đạt 3,98 ngn ha (trong đó, đạt tiêu chuẩn RFA, UTZ 1,95 ngn ha); đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa khâu đốn, hái, phun thuốc bảo vệ thực vật, đến nay toàn tỉnh đã có khoảng 2.087 máy hái chè, 1.416 máy đốn chè, 1.807 máy phun thuốc bằng động cơ và khoảng 56,3% diện tích chè hái bằng máy và 80% diện tích chè được đốn bằng máy;

- Liên kết sản xuất: Ngoài các doanh nghiệp, đơn vị có diện tích đất sản xuất chè (Công ty chè Phú Đa, Công ty chè Phú Bền, Viện Khoa học kỹ thuật nông, lâm nghiệp miền núi phía Bắc...), đã có một số doanh nghiệp ký kết hợp đồng liên kết thu mua chè búp tươi với số lượng khoảng 12 - 15 nghìn tấn/năm. Diện tích liên kết thu mua sản phẩm chè búp tươi đạt khoảng 15 - 20%.

(Có Phụ lục I chi tiết kèm theo)

2. Chế biến và tiêu thụ

- Chế biến: Toàn tỉnh hiện có 59 cơ sở chế biến chè có công suất trên 1 tấn búp tươi/ngày; có 1.281 cơ sở chế biến chè thủ công, nhỏ lẻ; 15 làng nghề và 08 hợp tác xã sản xuất, chế biến chè. Sản lượng chè chế biến năm 2015 đạt 55 ngàn tấn. Cơ cấu sản phẩm chè xanh chiếm khoảng 30%, chè đen chiếm 70%; đang từng bước xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ: Chè Bảo Long, chè Hà Trang, Phú Hộ trà; hình thành 15 làng nghề sản xuất, chế biến chè xanh (Làng nghề chè chùa Tà, làng nghề chế biến chè Ngọc Đồng, Hoàng Văn, làng nghề sản xuất chè Phú Thịnh,...);

- Tiêu thụ: Sản phẩm chè của Phú Thọ xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Đức, Mỹ, Hà Lan…, sản lượng chè xuất khẩu năm 2015 đạt 17,5 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 25,8 triệu USD (tăng 10,9 triệu USD so năm 2010).

(Có Phụ lục III, IV chi tiết kèm theo)

3. Công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm trên chè

Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền các văn bản quy định về quản lý an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến cho các cơ sở, người sản xuất biết và thực hiện. Đến hết năm 2015, đã có 1.373 người là chủ công ty, doanh nghiệp, người trực tiếp chế biến chè được cấp xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm; 50/59 cơ sở được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm trong sơ chế, chế biến chè. Đã tiến hành kiểm tra, đánh giá, phân loại, kiểm tra định kỳ điều kiện đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm các cơ sở chế biến chè trên địa bàn. Năm 2015, tổng số cơ sở xếp loại A, B là 86,4% (51 cơ sở) và loại C là 5,08% (3 cơ sở); cơ sở dừng hoạt động: 05 cơ sở. Có 20/59 cơ sở chế biến (chiếm 34%) có cơ sở hạ tầng, dây chuyền thiết bị, công nghệ được đầu tư mới, đồng bộ, đã đáp ứng được tiêu chuẩn Việt Nam, đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO, HACCP.

4. Thực hiện chính sách hỗ trợ: Trong 5 năm, đã có trên 10,3 nghìn hộ, tổ chức được hưởng lợi, với tổng kinh phí 10,7 tỷ đồng (ngân sách tỉnh 9,75 tỷ đồng, ngân sách huyện 0,95 tỷ đồng).

II. TỒN TẠI, HẠN CHẾ

- Quy mô sản xuất nhỏ (toàn tỉnh có 54.255 hộ trồng chè, diện tích bình quân khoảng 0,3 - 0,4 ha/hộ; số hộ có 2 ha trở lên là 457 hộ, số hộ có 5 ha trở lên có 24 hộ. Việc áp dụng quy trình kỹ thuật (bón phân, trồng cây che bóng, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, đốn, hái, …) còn nhiều bất cập dẫn đến năng suất, chất lượng chè vùng người dân canh tác còn thấp, có sự chênh lệch lớn với doanh nghiệp; việc sử dụng máy hái chè không đúng kỹ thuật ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển bền vững của cây chè. Trên địa bàn hiện có 10 giống chè mới trồng xen kẽ trên một vùng nguyên liệu do đó chưa khai thác tính ưu việt về chất lượng của từng giống; diện tích chè chất lượng cao còn ít (chiếm 2,18%). Việc đầu tư cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi,…) còn hạn chế. Mối liên kết giữa vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến còn lỏng lẻo;

- Các hộ nông dân trồng chè còn mang nặng tập quán, tâm lý sản xuất nhỏ, nhận thức về sản xuất nông nghiệp hàng hóa, liên kết sản xuất, an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế;

- Trên 80% số cơ sở chế biến chỉ sản xuất bán thành phẩm, sản phẩm xuất khẩu dưới dạng thô, không có nhãn mác, thương hiệu nên giá bán thấp; trên 60% cơ sở chế biến không có vùng nguyên liệu hoặc có nhưng không đủ sản xuất; trên 45% cơ sở chế biến có thiết bị, công nghệ lạc hậu, dây chuyền được cải tạo và nâng cấp thêm nên thiếu sự đồng bộ. Cơ cấu sản phẩm chủ yếu là chè đen CTC, OTD; cơ cấu chè xanh, chè chất lượng cao còn ít;

- Ý thức của người sản xuất, kinh doanh, chế biến chè về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế; việc kiểm soát chất lượng nguyên liệu chè búp tươi chưa được quan tâm, chú trọng. Việc áp dụng quy trình sản xuất an toàn chủ yếu mới áp dụng các công ty có vùng nguyên liệu hoặc các dự án triển khai có sự hỗ trợ của nhà nước.

Phần II

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN CHÈ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

[...]