Kế hoạch 3092/KH-UBND năm 2022 về phát triển chè trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2022-2025

Số hiệu 3092/KH-UBND
Ngày ban hành 10/08/2022
Ngày có hiệu lực 10/08/2022
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Phú Thọ
Người ký Nguyễn Thanh Hải
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3092/KH-UBND

Phú Thọ, ngày 10 tháng 8 năm 2022

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN CHÈ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2022 - 2025

Phát triển cây chè trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2021 được quan tâm chỉ đạo sát sao và đạt kết quả quan trọng: năng suất, sản lượng chè tăng cao so với năm 2015; đến hết năm 2021, diện tích chè toàn tỉnh đạt 15,4 nghìn ha, năng suất chè búp tươi đạt 122,5 tạ/ha, tăng 18% (+18,8 tạ/ha), sản lượng chè búp tươi đạt 185,2 nghìn tấn, tăng 14% (+22,8 nghìn tấn) so với năm 2016. Tư duy, nhận thức về phát triển sản xuất hàng hóa, đảm bảo an toàn thực phẩm của người dân có nhiều chuyển biến tích cực; diện tích các vùng sản xuất tập trung, liên kết theo chuỗi giá trị được mở rộng, hình thành và phát triển 142 vùng sản xuất chè xanh tập trung với diện tích 3,25 nghìn ha; tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa trong sản xuất chè được ngày càng được nhân rộng đã góp phần đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm[1]. Hệ thống cơ sở chế biến chè ngày càng phát triển, với sản lượng chế biến bình quân khoảng 60 nghìn tấn/năm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu[2]; cơ cấu sản phẩm chè qua chế biến có sự dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ chè xanh và chè khác (chè ô long, chè ướp hương, chè Matcha,...) chiếm khoảng 30%; công tác quản lý, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu chè ngày càng được quan tâm, đến nay có 18 sản phẩm chè đạt chứng nhận sản phẩm OCOP cấp tỉnh từ 3 sao trở lên, trong đó có 10 sản phẩm chè hạng 4 sao; năm 2020, nhãn hiệu chứng nhận “Chè Phú Thọ” đã được cấp văn bằng bảo hộ góp phần nâng cao uy tín, giá trị kinh tế, sức cạnh tranh của các sản phẩm chè trên địa bàn tỉnh; hiệu quả sản xuất chè ngày càng được nâng cao, nhiều hộ gia đình đã vươn lên làm giàu từ cây chè, đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới ở nhiều địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển sản xuất chè còn một số tồn tại, hạn chế như: Công tác chỉ đạo của một số địa phương còn chưa được quan tâm, chưa xác định vùng sản xuất hàng hóa để tập trung chỉ đạo; sản xuất qui mô nông hộ nhỏ lẻ, manh mún, thiếu liên kết, nhận thức về sản xuất hàng hóa, an toàn thực phẩm còn hạn chế; liên kết giữa phát triển vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến thiếu chặt chẽ, đa số tiêu thụ qua thương lái, không có hợp đồng, còn tình trạng tranh mua, tranh bán chè nguyên liệu; việc áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác còn hạn chế, năng suất, chất lượng chè còn thấp , chưa đảm bảo an toàn thực phẩm; tỷ lệ cơ cấu giống chè phục vụ chế biến chè xanh chất lượng cao còn thấp, sản phẩm chủ yếu là chè đen, sản phẩm chế biến chủ yếu xuất thô, giá bán thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao; hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác còn mang tính hình thức, thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ còn khó khăn.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên và nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè, xây dựng ngành chè thành ngành hàng chủ lực có giá trị gia tăng cao của tỉnh; theo đề nghị của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại văn bản số 1111/SNN-TT&BVTV ngày 20 tháng 7 năm 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Ban hành Kế hoạch phát triển chè trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025, với các nội dung sau:

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

- Triển khai cụ thể hóa Kế hoạch số 4889/KH-UBND ngày 23 tháng 10 năm 2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh về phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2021 - 2025; khai thác, phát huy tối đa tiềm năng lợi thế của từng vùng, địa phương;

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động về tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè; ứng dụng đồng bộ các quy trình kỹ thuật, cải thiện nâng cao năng suất, chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, phát triển thương hiệu, nâng cao giá trị thu nhập cây chè;

- Cụ thể hóa bằng các chương trình, dự án liên kết phát triển sản xuất tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị gắn với phát triển, nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại kết nối các hộ trong vùng sản xuất tập trung; thống nhất về quy trình sản xuất, tiêu chuẩn, liên kết tiêu thụ sản phẩm hình thành chuỗi ngành hàng chủ lực có giá trị cao của tỉnh.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

- Cơ cấu lại ngành chè theo hướng tăng cường liên kết, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất, hình thành và phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị ngành hàng;

- Ứng dụng khoa học công nghệ đồng bộ trong các khâu từ sản xuất, đến chế biến góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất; sản xuất đảm bảo an toàn thực phẩm, áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP, hữu cơ…), xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm và phát triển bền vững; tăng cường hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm;

- Tăng cường liên kết phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, trong đó tập trung rà soát quỹ đất Công ty lâm nghiệp trực thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam bàn giao về cho tỉnh quản lý, thu hút đầu tư phát triển vùng nguyên liệu chè xanh chất lượng cao gắn với chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm từ chè; chú trọng cải tạo vùng nguyên liệu chè hiện có, trồng bổ sung thay thế diện tích chè cằn xấu bằng các giống có chất lượng cao phục vụ chế biến và xuất khẩu.

2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025

- Ổn định diện tích chè toàn tỉnh khoảng 15,7 nghìn ha, năng suất chè búp tươi bình quân đạt 125 tạ/ha, sản lượng đạt 195 nghìn tấn, tăng 5,3% (10 nghìn tấn) so với năm 2021;

- Trồng mới, trồng bổ sung diện tích chè cằn xấu khoảng 600 ha để nâng diện tích vùng sản xuất tập trung đạt trên 6 nghìn ha; trong đó tập trung rà soát, khai thác có hiệu quả khoảng 270 ha quỹ đất các Công ty lâm nghiệp bàn giao về cho tỉnh quản lý[3]; khuyến khích trồng thay thế, cải tạo chè bằng các giống chè chất lượng cao, phát triển các vùng sản xuất tập trung chè xanh chất lượng cao trên địa bàn các huyện trọng điểm: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Thanh Ba, Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn;

- Chú trọng áp dụng biện pháp kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn, hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất trong sản xuất, chế biến chè. Phấn đấu diện tích chè ứng dụng IPM đạt 90%; diện tích chè được áp dụng quy trình sản xuất tốt, an toàn (GlobalGAP, RA, VietGAP, hữu cơ,...) chiếm trên 40% (khoảng 6 nghìn ha, trong đó chứng nhận mới 2,6 nghìn ha đạt tiêu chuẩn VietGAP);

- Đa dạng hóa sản phẩm chè, phấn đấu tỷ lệ chè xanh và các sản phẩm chè chế biến sâu (Ô long, thảo dược, matcha,... ) đạt trên 40% trong cơ cấu chế biến; phấn đấu giá trị sản phẩm bình quân chè xanh đạt khoảng 135 triệu đồng/1ha; tỷ lệ sản phẩm được sản xuất dưới các hình thức hợp tác, liên kết đạt 40%;

- 100% thành viên HTX sản xuất nông nghiệp, trang trại, nông dân nòng cốt tại vùng sản xuất tập trung được đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực về quản lý, cập nhật và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, thông tin thị trường;

- Phấn đấu 100% diện tích sản xuất chè tập trung được quản lý, cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, truy suất nguồn gốc theo yêu cầu của các nước nhập khẩu;

- Xây dựng, hình thành các vùng sản xuất chè an toàn, liên kết sản xuất, chế biến, hình thành và phát triển 3-4 điểm quảng bá văn hóa trà đất Tổ gắn với du lịch.

(Chi tiết tại các Phụ lục kèm theo)

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo

- Tập trung chỉ đạo đổi mới tư duy sản xuất theo hướng hàng hóa, liên kết theo chuỗi giá trị gắn với đổi mới các hình thức, phương thức tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường, hình thành chuỗi ngành hàng chủ lực của tỉnh;

- Tăng cường sự lãnh chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, nhất là đối với các huyện có diện tích chè lớn (Đoan Hùng, Hạ Hòa, Thanh Ba, Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập) tập trung rà soát, xác định rõ các vùng sản xuất tập trung trên địa bàn để chỉ đạo cụ thể hóa bằng các kế hoạch, chương trình, dự án theo chuỗi giá trị, nhằm cải tạo nâng cao năng suất, chất lượng vùng chè nguyên liệu đáp ứng yêu cầu và các tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ sản xuất, chế biến chè xanh và nguyên liệu phục vụ chế biến chè đen;

- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề và cơ sở chế biến đầu tư áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; đồng thời rà soát, sắp xếp xây dựng vùng nguyên liệu ổn định hoặc ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người dân cung cấp nguyên liệu, hình thành chuỗi nguyên liệu - chế biến - tiêu thụ;

[...]