TỔNG
CỤC THUẾ
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 1300/TCT-TS
V/v: Tăng cường quản lý thuế tài sản và thu
khác
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2006
|
Kính gửi:
Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Trước tình hình hoạt động kinh doanh bất động sản
có nhiều khó khăn, giá cả bất động sản đang có xu hướng giảm dần, cùng với việc
triển khai thi hành các chính sách ưu đãi đối với người sử dụng đất (giảm mức
thu, ghi nợ, miễn giảm.v.v.) làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách. Trong khi đó
nhiệm vụ thu thuế tài sản và thu khác năm 2006 tăng xấp xỉ 40% so với nhiệm vụ
thu năm 2005. Để hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu thuế tài sản và thu khác năm
2006, yêu cầu Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung chỉ
đạo và tổ chức thực hiện tốt các công việc chính sau đây:
1. Giao nhiệm vụ thu thuế tài sản và thu khác
năm 2006 cho từng phòng, chi cục Thuế quận, huyện tối thiểu bằng mức phấn đấu của
Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã giao cho Cục thuế, cụ thể:
a) Tổ chức đánh giá kỹ tình hình thực hiện thu
năm 2005 (số phát sinh, số đã thu, số còn tồn đọng chưa thu) và các chỉ tiêu
kinh tế liên quan ảnh hưởng đến kết quả thu của từng Khoản thuế tài sản và thu
khác (thu tiền sử dụng đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất; thu tiền thuê đất,
thuê mặt nước; thuế nhà đất; lệ phí trước bạ; phí xăng dầu; phí, lệ phí và các Khoản
thu khác ngân sách) ở từng địa phương (quận, huyện).
b) Phân tích, dự báo các yếu tố biến động, tăng
trưởng nguồn thu năm 2006 của từng Khoản thu, đặc biệt phải lường hết các yếu tố
ảnh hưởng của chính sách, thị trường (giá cả, ghi nợ, tình hình thị trường.v.v.)
có tác động đến nguồn thu ngân sách nhà nước năm 2006.
c) Theo dõi sát tình hình thực hiện thu ở từng địa
phương (phòng, chi cục), có biện pháp tháo gỡ kịp thời các vướng mắc để bảo đảm
thu kịp thời, đầy đủ các Khoản phát sinh, đôn đốc nộp các Khoản nợ vào ngân
sách nhà nước. Trường hợp vướng mắc không thuộc thẩm quyền giải quyết thì phải
báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành liên quan phối hợp giải quyết hoặc
báo cáo Bộ Tài chính nghiên cứu hướng dẫn xử lý chung, bảo đảm thu đúng, thu đủ
các Khoản phải thu và chống phiền hà, tiêu cực đối với người nộp thuế.
d) Định kỳ hàng tháng thực hiện đánh giá, báo
cáo tình hình thu, tình hình thực hiện các chính sách và công tác quản lý thuế
tài sản và thu khác tại địa phương về Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế theo hướng dẫn
tại Công văn số 486 TCT/TS ngày 7/2/2005 của Tổng cục Thuế về việc báo cáo tình
hình thu thuế tài sản và thu khác ngân sách.
2. Chủ động phối hợp với các ngành liên quan (Sở
Tài chính vật giá, Sở Tài nguyên và Môi trường.v.v.) để tham mưu với Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố (gọi chung là UBND tỉnh) ban hành các Bảng giá tính
thuế sát với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường địa phương, cụ thể:
a) Bảng giá đất làm căn cứ tính thu các Khoản từ
đất (thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất và
lệ phí trước bạ). Trường hợp tại thời Điểm giao đất và tính các Khoản thu từ đất
mà giá đất quy định không còn sát với giá chuyển quyền sử dụng đất thực tế trên
thị trường thì báo cáo UBND tỉnh kịp thời quyết định Điều chỉnh giá đất cho phù
hợp.
b) Bảng giá tài sản (nhà, tàu thuyền, ôtô, xe
máy) tính lệ phí trước bạ. Trong quá trình thực hiện, nếu có phát sinh một số
loại tài sản mới chưa được quy định trong bảng giá hoặc giá cả quy định không
còn phù hợp với thực tế thì Cục thuế phải chủ động xác định lại và kịp thời Điều
chỉnh giá tính lệ phí trước bạ cho phù hợp; Tuyệt đối không vì lý do chưa được
quy định giá mà không thu hoặc gây khó khăn đối với người nộp thuế.
c) Quy định và công bố giá thóc tính thuế sử dụng
đất nông nghiệp để làm cơ sở tính thuế nhà đất hàng năm, tránh tình trạng ổn định
giá thóc tính thuế trong một số năm (trong khi giá thóc trên thị trường đã biến
động tăng gần gấp 2 lần giá thóc tính thuế của địa phương đang áp dụng), hoặc
ban hành giá thóc tính thuế quá chậm sau khi đã quá kỳ hạn tính thuế áp dụng.
3. Chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức thu thuế tài sản
và thu khác đúng chính sách, quy trình và thời hạn quy định, bảo đảm nguồn thu
ngân sách nhà nước và thuận tiện cho người nộp thuế:
3.1. Về thu tiền sử dụng đất:
a) Tập trung giải quyết dứt Điểm các hồ sơ nộp
tiền sử dụng đất đã nhận (nhận trực tiếp hoặc nhận từ cơ quan Tài nguyên môi
trường theo quy định hiện hành, tránh tình trạng tồn đọng hồ sơ nộp tiền sử dụng
đất vượt quá thời hạn quy định và đẩy mạnh thu ngân sách từ những tháng đầu
năm.
b) Tổ chức rà soát các trường hợp được nhà nước
giao đất, cho phép chuyển Mục đích sử dụng đất, hợp thức hóa quyền sử dụng đất
(cấp GCNQSDĐ) nhưng chưa nộp tiền sử dụng đất để phân loại xử lý như sau:
- Phối hợp với cơ quan Tài nguyên và Môi trường ở
địa phương để nắm đầy đủ các trường hợp được nhà nước giao đất trong thời gian
qua trên địa bàn địa phương, phát hiện những trường hợp được giao đất nhưng
chưa nộp hoặc nộp chưa đủ tiền sử dụng đất, nguyên nhân của sự thất thoát, chậm
nộp tiền sử dụng đất để có biện pháp truy thu đủ tiền sử dụng đất vào ngân sách
nhà nước hoặc xử lý phạt (nếu có) theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền cấp
Giấy CNQSDĐ để thực hiện việc thu tiền sử dụng đất trước khi cấp giấy CNQSDĐ đối
với các trường hợp được nhà nước giao đất, được chuyển Mục đích sử dụng đất (trừ
hộ gia đình, cá nhân được ghi nợ tiền sử dụng đất) đúng quy định, tránh tình trạng
ở một số địa phương thực hiện cấp đất cho các dự án, mà các dự án này đã hoàn
thành việc xây dựng, bàn giao cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng, Ban quản lý dự
án đã giải tán, nhưng tiền sử dụng đất vẫn chưa thu được hoặc thu chưa đủ.
- Đối với những hộ gia đình, cá nhân được chuyển
Mục đích sử dụng đất, được hợp thức hóa quyền sử dụng đất, nếu nhận được hồ sơ
từ cơ quan Tài nguyên và Môi trường chuyển đến kể từ ngày Nghị định số
17/2006/NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì cơ quan Thuế tính tiền sử dụng đất theo
giá đất tại thời Điểm cấp giấy CNQSDĐ và tạm thời không ghi thời hạn nộp tiền và
mức phạt chậm nộp ngân sách nhà nước vào thông báo nộp tiền sử dụng đất. Trường
hợp người sử dụng đất chưa đủ khả năng nộp tiền vào ngân sách nhà nước thì cơ
quan Tài nguyên và Môi trường ghi số tiền sử dụng đất còn nợ vào Giấy CNQSDĐ.
Việc ghi nợ tiền sử dụng đất trong trường hợp này chỉ thực hiện đối với những
người sử dụng đất chưa đủ khả năng nộp tiền vào ngân sách nhà nước, không áp dụng
đối với mọi trường hợp và đặc biệt là không thể coi việc ghi nợ là việc đương
nhiên đối với tất cả các hộ gia đình, cá nhân.
3.2. Về thu tiền thuê đất:
a) Thực hiện dứt Điểm quyết toán thu tiền thuê đất
năm 2005 theo quy định tại Thông tư số 35/2001/TT-BTC ngày 25/5/2001 của Bộ Tài
chính hướng dẫn việc nộp tiền thuê đất, góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử
dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước và Quyết định số
189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Bảng
quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam.
b) Kiểm kê, rà soát lại toàn bộ các trường hợp
thuê đất trên địa bàn địa phương:
- Tổng số đối tượng (tổ chức, cá nhân) thuê đất,
số đối tượng nộp tiền thuê đất hàng năm, số đối tượng nộp tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê, số đối tượng không phải nộp hoặc được miễn, giảm tiền
thuê đất.
- Diện tích đất thuê, thời hạn thuê, số tiền
thuê đất đã nộp, số tiền bồi thường đất được trừ vào tiền thuê đất phải nộp của
từng tổ chức, cá nhân thuê đất. Cần lưu ý việc trừ tiền bồi thường đất vào số
tiền thuê đất phải nộp chỉ thực hiện đối với các trường hợp bắt đầu ký hợp đồng
thuê đất, có quyết định thuê đất hoặc nhận bàn giao đất thuê kể từ ngày Nghị định
số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt
nước có hiệu lực thi hành và phải nộp tiền thuê đất theo đơn giá thuê đất quy định
tại Nghị định số 142/2005/NĐ-CP.
c) Đề nghị cơ quan chức năng (Sở Tài chính, UBND
quận, huyện) khẩn trương xác định và quyết định đơn giá thuê đất cho từng dự
án, từng trường hợp thuê đất chưa nộp tiền thuê đất kể từ 01/01/2006 theo Nghị
định số 142/2005/NĐ-CP nêu trên.
d) Tính và lập sổ bộ thu tiền thuê đất, thuê mặt
nước và gửi thông báo thu tiền thuê đất năm 2006 cho từng tổ chức, cá nhân và
có biện pháp đẩy mạnh thu tiền thuê đất vào ngân sách nhà nước theo đúng tiến độ
quy định.
e) Thực hiện đánh giá, phân tích khả năng thu tiền
thuê đất năm 2006 về các yếu tố tăng, giảm nguồn thu như: Tăng, giảm số tổ chức,
cá nhân thuê đất và diện tích đất thuê; Tăng giảm giá đất và đơn giá thuê đất;
Tăng số tiền bồi thường, hỗ trợ đất được trừ vào số tiền thuê đất phải nộp làm
giảm tiền thuê đất nộp ngân sách nhà nước; Số đơn vị và số tiền thuê đất đã nộp
từ những năm trước (nộp một lần cho cả thời gian thuê hoặc nộp một lần cho nhiều
năm) v.v., báo cáo Tổng cục Thuế để tổng hợp đánh giá tình hình chung.
3.3. Thuế nhà đất:
Cơ quan Thuế cần chủ động phối hợp với các cơ
quan liên quan ở địa phương (Tài nguyên môi trường, quản lý nhà đất, xây dựng,
UBND phường, xã,.v.v.) để thực hiện lập sổ bộ thuế nhà đất và tổ chức thu thuế
nhà đất theo đúng Thông tư số 83/TC/TCT ngày 07/10/1994 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành Nghị định số 94/CP ngày 25/8/1994 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Pháp lệnh về Thuế nhà đất, cụ thể như sau:
a) Tổ chức kiểm kê, rà soát các đối tượng thực tế
đang sử dụng đất trên địa bàn từng phường, xã, quận, huyện, so sánh với các đối
tượng đã lập sổ bộ, nộp thuế nhà đất, phát hiện các trường hợp sử dụng đất mà
chưa nộp thuế nhà đất để quản lý bao quát đầy đủ các đối tượng phải nộp thuế
nhà đất trên địa bàn, trong đó cần đặc biệt lưu ý đối với các trường hợp sử dụng
đất không đúng Mục đích của các cơ quan hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an
ninh, các tổ chức chính trị, xã hội.v.v. Trường hợp phát hiện các tổ chức, cá
nhân sử dụng đất thuộc đối tượng chịu thuế nhà đất nhưng không phải nộp hoặc được
miễn, giảm thuế nhà đất vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… (gọi chung
là kinh doanh) thì phải bổ sung các đối tượng đó vào đối tượng quản lý thu thuế
nhà đất theo quy định. Trường hợp phát hiện các hợp đồng, các chứng từ cho thuê
đất, sử dụng đất vào Mục đích kinh doanh từ những năm trước nhưng không kê
khai, nộp thuế nhà đất theo quy định thì cơ quan Thuế thực hiện truy thu kể từ
thời gian bắt đầu sử dụng đất vào kinh doanh, nhưng tối đa không quá ba (03)
năm kể từ ngày phát hiện.
b) Kiểm tra, xác định đúng diện tích tính thuế
nhà, đất của từng tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp lệnh thuế nhà đất
và Luật Đất đai năm 2003, cụ thể:
- Đối với thửa đất có nhà hay chưa có nhà trên
đó mà tổ chức, cá nhân đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) thì diện
tích đất chịu thuế nhà đất là toàn bộ diện tích đất ở (kể cả đất đã xây dựng
công trình hay chưa xây dựng công trình), đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
được ghi cụ thể trong GCNQSDĐ (trừ diện tích đất sản xuất nông nghiệp).
- Đối với thửa đất có nhà trên đó mà tổ chức, cá
nhân chưa có GCNQSDĐ thì diện tích đất chịu thuế nhà, đất là toàn bộ diện tích
đất trong khuôn viên do tổ chức, cá nhân đó thực tế quản lý sử dụng (trừ diện
tích đất thuộc đối tượng không chịu thuế nhà đất nêu tại Khoản
3, Mục I Thông tư số 83 TC/TCT ngày 7/10/1994 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thi hành Nghị định số 94/CP ngày 25/8/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất).
- Đối với thửa đất chưa có nhà trên đó mà tổ chức,
cá nhân chưa có GCNQSDĐ thì cần phân biệt: Nếu thửa đất đó nằm trong khu vực
dân cư hoặc trong sổ địa chính của xã, phường xác định là đất ở, đất kinh doanh
hoặc là đất thổ cư thì tính thuế nhà đất đối với toàn bộ diện tích đất trong
khuôn viên do tổ chức, cá nhân đó quản lý sử dụng; Nếu thửa đất đó nằm trong
khu vực đất sản xuất nông nghiệp hoặc sổ địa chính của xã phường cũng không xác
định là đất ở, đất thổ cư hay là đất kinh doanh thì đưa vào diện chịu thuế sử dụng
đất nông nghiệp.
- Đối với thửa đất nông nghiệp nhưng đã xây dựng
nhà ở hoặc sử dụng vào kinh doanh phi nông nghiệp thì phải tính thuế nhà đất đối
với toàn bộ diện tích đất thực tế sử dụng vào Mục đích ở (nhà, sân, vườn…) hoặc
sử dụng vào kinh doanh phi nông nghiệp.
- Đối với đất thuộc đối tượng chịu thuế nhà đất
thuộc trường hợp không phải nộp thuế hoặc được miễn thuế nhà đất, nhưng nếu thực
tế sử dụng không đúng Mục đích thì phải tính thuế nhà đất đối với toàn bộ diện
tích đất sử dụng sai Mục đích.
c) Xác định đúng hạng đất và mức thuế nhà đất đối
với từng vị trí đất, đặc biệt lưu ý Điều chỉnh nâng hạng đất và mức thuế đối với
những vị trí đất tại các địa Điểm nhà nước có sự đấu tư phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông, đô thi như: đất ven các khu công nghiệp, khu đô thị mới, các trục
đường, các đầu mối giao thông vừa hình thành hoặc chuẩn bị hình thành, đất tại
những khu vực đô thị hóa về địa giới hành chính (chuyển từ huyện, sang quận, từ
xã sang phường, thị trấn…). Việc xác định hạng đất và mức thuế trong thời gian
đầu mới chuyển đổi, đô thị hóa về địa giới hành chính, cần phải được xem xét
cân đối với các yếu tố về cơ sở hạ tầng giao thông, đô thị, trình độ văn hóa,
xã hội phù hợp với tình hình thực tế chung của địa phương, tránh việc Điều chỉnh
tăng thuế nhà đất đột biến trong khi các Điều kiện về đô thị hóa chưa có sự
phát triển đồng bộ.
3.4. Thu phí, lệ phí:
a) Tổ chức rà soát các Khoản phí, lệ phí hiện
đang thu tại địa phương với Danh Mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định số
24/2006/NĐ-CP ngày 06/03/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh Phí và Lệ phí.
- Đối với những loại phí, lệ phí thực tế đang
thu nhưng không có tên trong Danh Mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định số
24/2006/NĐ-CP (Danh Mục) thì trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (UBND tỉnh) quyết định
bãi bỏ (đối với loại phí, lệ phí do UBND tỉnh ban hành hoặc thuộc thẩm quyền
ban hành) hoặc báo cáo Bộ Tài chính xem xét, quyết định. Trường hợp xét thấy loại
phí, lệ phí đó cần được tiếp tục áp dụng thì phải có văn bản báo cáo Chính phủ
hoặc Bộ Tài chính về cơ sở đạo lý và thực tế để được sự chấp thuận của cơ quan
có thẩm quyền. Tuyệt đối tránh tình trạng cơ quan Thuế tham mưu để ban hành các
mức thu và chế độ thu, nộp phí, lệ phí trái quy định.
- Đối với những loại phí, lệ phí có tên trong
danh Mục quy định, nhưng chưa được ban hành mức thu và chế độ thu, nộp thì sớm
có văn bản báo cáo cơ quan có thẩm quyền đề nghị kịp thời ban hành chế độ thu,
tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thu đúng quy định.
b) Phối hợp với cơ quan Tài chính cùng cấp để thực
hiện kiểm tra quyết toán phí, lệ phí (tình hình thu, nộp và quản lý sử dụng từng
loại phí, lệ phí ở từng cơ quan, đơn vị thu phí, lệ phí).
Việc kiểm tra quyết toán phí, lệ phí trước hết cần
tập trung đối với những cơ quan, đơn vị có nguồn thu thu phí, lệ phí lớn hoặc
chưa thực hiện kiểm tra quyết toán trong thời gian từ 3 năm trở lại đây, nhằm Mục
đích:
- Phát hiện các Khoản thu ngân sách còn tồn đọng
để đôn đốc thu dứt Điểm vào ngân sách nhà nước trong những ngày đầu năm 2006.
- Phát hiện những trường hợp sử dụng tiền phí, lệ
phí được để lại sai Mục đích, sử dụng không hết tiền phí, lệ phí (thừa) năm này
chuyển sang năm khác với số lượng lớn (tỷ trọng so với số thu).
- Tổng hợp báo cáo tình hình thu và quản lý sử dụng
các loại phí, lệ phí không phù hợp, phân tích nguyên nhân và đề xuất với cơ
quan ban hành và Tổng cục Thuế để có cơ sở nghiên cứu Điều chỉnh, sửa đổi chính
sách thu và quản lý cho phù hợp về các chỉ tiêu chủ yếu như: Tổng số tiền phí,
lệ phí thu được; Số tiền phí, lệ phí được trích để lại theo chế độ; Số tiền phí
lệ phí đã sử dụng, trong đó: số tiền chi đúng nội dung và số tiền đã chi sai nội
dung chi quy định; Số tiền phí, lệ phí được trích còn thừa và tỷ lệ (%) số
trích thừa so với tổng số tiền phí, lệ phí thu được; Kiến nghị biện pháp xử
lý.v.v.
c) Quản lý, phản ánh đầy đủ các Khoản phí, lệ
phí thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước, kể cả các Khoản phí, lệ phí phát sinh tại
xã, phường, thị trấn vào ngân sách nhà nước theo đúng quy định của Luật ngân
sách nhà nước.
3.5. Về thu lệ phí trước bạ (LPTB):
Cơ quan Thuế trực tiếp thu LPTB tại các khu vực
đô thị cần kiểm soát và áp dụng đúng mức thu 5% đối với ôtô, xe máy kê khai
LPTB lần đầu tại các thành phố, thị xã. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý đối với
trường hợp một số tổ chức, cá nhân không có năng lực vận tải hành khách và thực
tế cũng không hoạt động vận tải hành khách, nhưng xin bổ sung ngành nghề vận tải
chở khách trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để được nộp LPTB với mức 2%.
Trường hợp này, cơ quan Thuế cần thông báo cho người nộp LPTB biết: Nếu quá
trình hoạt động, tổ chức, cá nhân đó không hoạt động vận tải hành khách (không
phát sinh doanh thu vận tải hành khách) thì cơ quan Thuế sẽ truy thu đủ số tiền
LPTB phải nộp theo mức thu 5%, ngoài ra còn bị xử phạt về hành vi trốn nộp LPTB
theo quy định.
3.6. Về phí xăng dầu:
a) Thực hiện kiểm tra các đơn vị kinh doanh xăng
dầu trên địa bàn để phát hiện và quản lý thu phí xăng dầu đối với tất cả các tổ
chức, cá nhân thuộc đối tượng phải nộp phí xăng dầu nhưng chưa nộp phí xăng dầu.
b) Thường xuyên nắm sát tình hình kinh doanh
xăng dầu của các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng phải nộp phí xăng dầu tại địa
phương về số lượng xăng, dầu diezel nhập kho (nhập khẩu, mua vào hoặc nhận từ
kho nội bộ); số lượng xăng, dầu tồn kho (đầu kỳ, cuối kỳ); tỷ lệ hao hụt định mức
và số lượng xăng dầu hao hụt thực tế để xác định đúng số lượng xăng dầu thực tế
đã xuất bán, đối chiếu với lượng xăng dầu kê khai nộp phí xăng dầu để phát hiện
số phí xăng dầu kê khai thiếu và có biện pháp thu đủ phí xăng dầu vào ngân sách
nhà nước. Trường hợp tổ chức, cá nhân cố tình trốn nộp hoặc vi phạm nhiều lần
(có hệ thống) thì áp dụng biện pháp xử lý phạt về hành vi gian lận phí xăng dầu.
Trên đây là một số công việc cần tập trung triển
khai của năm 2006 để tăng cường hơn nữa công tác quản lý thu các Khoản thuế,
phí, lệ phí và thu khác. Tổng cục Thuế yêu cầu Cục thuế các tỉnh, thành phố chỉ
đạo cán bộ thường xuyên cập nhật thông tin, nghiên cứu kỹ các chính sách chế độ,
triển khai các biện pháp quản lý phù hợp, bảo đảm hoàn thành vượt mức nhiệm vụ
thu ngân sách nhà nước theo chỉ tiêu phấn đấu mà Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế
đã giao năm 2006./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Lưu: VT, TS.
|
KT. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Phạm Duy Khương
|