Chỉ thị 33/2004/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 33/2004/CT-TTg
Ngày ban hành 23/09/2004
Ngày có hiệu lực 16/10/2004
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phan Văn Khải
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 33/2004/CT-TTg

Hà Nội, ngày 23 tháng 9 năm 2004

 

CHỈ THỊ

VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2006 - 2010

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra và đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới.

Để xây dựng tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các ngành, các cấp từ Trung ương, địa phương và cơ sở quán triệt một số vấn đề sau:

I. YÊU CẦU ĐỐI VỚI KẾ HOẠCH 5 NĂM 2006 - 2010

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 cần đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện và sâu sắc hơn các mặt hoạt động kinh tế - xã hội gắn với hội nhập kinh tế quốc tế.

Cần đặt lên hàng đầu chất lượng của sự phát triển: tăng trưởng kinh tế nhanh với hiệu quả và sức cạnh tranh cao; bảo đảm cân đối kinh tế vĩ mô; phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, đầu tư nhiều hơn cho phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

Các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương cần:

1. Xem xét, điều chỉnh các quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, đặc biệt sớm điều chỉnh quy hoạch của các ngành thép, xi măng, ô tô; quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, bao quát được các thành phần kinh tế và có tầm nhìn xa đến năm 2020.

2. Các mục tiêu kế hoạch cần tính đến nước ta đã đến thời kỳ hội nhập đầy đủ vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và bước đầu vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), phải cạnh tranh gay gắt trong sự hợp tác song phương và đa phương đa dạng hơn.

3. Tập trung nhiều hơn vào các mục tiêu chất lượng tăng trưởng: trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 thu hẹp các chỉ tiêu số lượng, mở rộng các chỉ tiêu chất lượng tăng trưởng và phát triển. Ngoài các chỉ tiêu kinh tế, cần tính toán xác định các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cuộc sống, phát triển con người, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường.

4. Kế hoạch 5 năm phải cụ thể hóa đầy đủ các mục tiêu được xác định trong các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam; các cam kết của Việt Nam với quốc tế.

5. Ngoài các nội dung đã có trong kế hoạch trước đây, nghiên cứu bổ sung thêm những nội dung mới gắn kết giữa kinh tế và xã hội: ổn định kinh tế vĩ mô; xóa đói giảm nghèo; phát triển bền vững; cải thiện chất lượng cuộc sống; vấn đề giá trị dân tộc và tôn giáo; phụ nữ và bình đẳng giới; thanh niên; chương trình đầu tư công; phương pháp theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch, đặc biệt là giám sát cộng đồng....

6. Giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, nhất là sức sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Phát huy tối đa nguồn lực trong nước, xem đây là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ cao nhất các nguồn lực bên ngoài, sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn cho phát triển.

Sử dụng các nguồn lực do nhà nước trực tiếp quản lý đáp ứng tốt hơn những lĩnh vực phi lợi nhuận về hạ tầng xã hội. Hoàn thiện thêm một bước cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.

Công khai, minh bạch trong phân bổ và quản lý ngân sách, tạo điều kiện để người dân tham gia lựa chọn mục tiêu, dự án và giám sát thực hiện dự án tại địa phương.

7. Trong tính toán kế hoạch, nghiên cứu áp dụng các phương pháp tính toán của quốc tế và các tiêu chuẩn quốc tế (như tiêu chí tính nợ xấu, chuẩn đói nghèo, cân đối ngân sách...).

8. Tiếp tục phân cấp và trao quyền nhiều hơn cho chính quyền các cấp trong xây dựng, tổ chức thực hiện và điều hành kế hoạch kinh tế - xã hội của cấp mình nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trước nhân dân và cộng đồng. Cấp tỉnh là cấp chịu trách nhiệm chính đối với sự phát triển văn hóa - xã hội và đời sống của nhân dân trên địa bàn. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 không chỉ phục vụ lãnh đạo, điều hành của các cơ quan, các tổ chức của Đảng và nhà nước mà còn là định hướng của việc phát triển, thu hút sự quan tâm của tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

9. Đổi mới quy trình xây dựng kế hoạch theo hướng công khai, mở rộng các đối tượng tham gia, đóng góp ý kiến cho kế hoạch. Trong quá trình xây dựng kế hoạch 5 năm, các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tổ chức lấy ý kiến các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức phi Chính phủ, các tầng lớp xã hội, các cộng đồng dân cư, nhất là các nhà đầu tư và doanh nghiệp.

II. VỀ NỘI DUNG KẾ HOẠCH 5 NĂM 2006 - 2010, CẦN CHÚ TRỌNG CÁC VẤN ĐỀ SAU:

1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005

Trên cơ sở tình hình thực hiện kế hoạch 3 năm 2001 - 2003, ước thực hiện kế hoạch năm 2004 và dự kiến kế hoạch năm 2005, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 trên tất cả các mặt phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt so sánh với những mục tiêu được đề cập trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX của Đảng.

Cùng với việc đánh giá các mục tiêu do Quốc hội đề ra, cần đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính sách lớn về bảo đảm phát triển bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế.

Đánh giá cơ chế quản lý và công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch; vấn đề cải cách hành chính tập trung đánh giá về việc triển khai cụ thể hóa các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và thể chế của Nhà nước, vấn đề chấp hành kỷ luật, kỷ cương, việc tinh giảm các thủ tục hành chính, vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ.

Ngoài ra, cần đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã, kinh tế tư nhân; đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010; kết luận hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế...

Khi tổng kết, đánh giá tình hình phải bảo đảm yêu cầu khách quan, trung thực, đánh giá đúng thực tế. Tập trung phân tích, đánh giá sâu về chất lượng tăng trưởng của từng ngành, địa phương; khả năng cạnh tranh của các sản phẩm chủ yếu; việc khai thác và sử dụng các nguồn lực, nhất là nguồn đất đai và thực trạng sử dụng đất đai; chất lượng nguồn lao động và sử dụng lao động; khai thác và sử dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học và đổi mới công nghệ; việc huy động và sử dụng các nguồn vốn, bao gồm: nguồn ngân sách nhà nước, nguồn tín dụng đầu tư của nhà nước và tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại, nguồn vốn từ khu vực dân cư, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn tài chính doanh nghiệp.

Khi phân tích các vấn đề trên, cần làm rõ những kết quả đã đạt được trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, đi sâu vào những tồn tại, yếu kém, khó khăn; xác định nguyên nhân chủ quan và khách quan đối với cả những mặt đã làm được và chưa làm được; chỉ rõ trách nhiệm của từng ngành, từng cấp để từ đó rút ra những bài học cho việc xác định mục tiêu và biện pháp cụ thể của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010.

2. Dự báo bối cảnh trong nước và quốc tế thời kỳ năm 2006 - 2010

[...]