Báo cáo 153/BC-BTP năm 2013 tổng kết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 do Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 153/BC-BTP
Ngày ban hành 15/07/2013
Ngày có hiệu lực 15/07/2013
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Đinh Trung Tụng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Văn hóa - Xã hội

BỘ TƯ PHÁP
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 153/BC-BTP

Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2013

 

BÁO CÁO

TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000

Qua các thông tin, số liệu, đánh giá, nhận định được thể hiện trong Báo cáo tổng kết của 9 Bộ, ngành và tổ chức ở Trung ương; 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ý kiến của 138 các cơ quan, tổ chức hữu quan; Báo cáo kết quả khảo sát, các tọa đàm, hội thảo khoa học, Bộ Tư pháp xây dựng Báo cáo này để tổng kết những kết quả đạt được và những bất cập, hạn chế của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000(Luật HN-GĐ năm 2000) qua thực tiễn 12 năm thi hành như sau[1]:

Trong 12 năm qua, công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật HN- GĐ năm 2000 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể là, bảo đảm Luật HN-GĐ năm 2000 thực sự đi vào cuộc sống, ngày 9/6/2000, Quốc hội khóa X đã ban hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 về thi hành Luật này (Nghị quyết số 35/2000/QH10) trong đó đã quy định rõ trách nhiệm của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp tổ chức việc rà soát các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành để huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp với quy định của Luật này, bảo đảm hiệu lực của Luật từ ngày 01 tháng 01 năm 2001; nguyên tắc áp dụng pháp luật đối với những trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước thời điểm Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực.

Thực thi Luật HN-GĐ năm 2000 và Nghị quyết số 35/2000/QH10, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định để hướng dẫn chi tiết, như: Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN-GĐ năm 2000; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật HN-GĐ đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài … Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao cùng một số Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành nhiều thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật HN-GĐ.

Trong công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 và nhiều văn bản liên tịch khác trong hướng dẫn một số quy định của Luật HN-GĐ để áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành nhiều văn bản của ngành để hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình, như: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của Luật HN-GĐ năm 2000; Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình

Những văn bản trên đã đóng vai trò tích cực, bảo đảm tính cụ thể và khả thi của các quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 trong cuộc sống, bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, từ đó quyền, nghĩa vụ của người dân về hôn nhân và gia đình được thực hiện, bảo vệ tốt hơn.[2]

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng mô hình can thiệp, giảm tiêu cực trong kết hôn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số địa bàn trọng điểm phía Bắc như Hải Dương, Hải Phòng. Thông qua hình thức sinh hoạt các loại hình Câu lạc bộ, đặc biệt là Câu lạc bộ Gia đình, công tác tuyên truyền đem lại hiệu quả và là hình thức truyền thông trực tiếp được các địa phương áp dụng nhiều nhất để đưa Luật HN-GĐ vào cuộc sống. Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành văn bản số 1481/BVHTTDL-GĐ ngày 13/5/2009 về thu thập số liệu quản lý về gia đình trong đó có số liệu về tảo hôn.

Trong 12 năm thi hành Luật HN-GĐ năm 2000, với sự quan tâm của Chính phủ, Bộ Tư pháp, sự đầu tư của các cấp, ngành từ trung ương đến cơ sở, công tác hộ tịch đã có những bước tiến cơ bản và đạt những thành tựu quan trọng. Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch được củng cố, đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch được tăng cường; hệ thống sổ sách, dữ liệu hộ tịch được lưu trữ và sử dụng lâu dài; đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch; khẳng định vai trò trong quản lý nhà nước và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền về hôn nhân và gia đình nói riêng. Các dữ liệu hộ tịch được hình thành với hệ thống sổ sách về hộ tịch được lưu trữ, sử dụng lâu dài. Hiện tại, ở cả 03 cấp trong cả nước (tỉnh, huyện, xã) đang lưu một số lượng tương đối lớn: 771.909 sổ hộ tịch và 55.886.079 dữ liệu đăng ký trong các sổ này, bao gồm[5]:

- Sổ đăng ký khai sinh: 351.030 quyển, trong đó có 13.313.997 dữ liệu khai sinh;

- Sổ đăng ký kết hôn: 236.546 quyển, trong đó có 13.261.139 dữ liệu kết hôn;

- Sổ đăng ký khai tử: 184.333 quyển, trong đó có 5.290.943 dữ liệu khai tử.

Đặc biệt công tác hộ tịch ở các khu vực miền núi, vùng sâu, xa, nơi điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn đã có những chuyển biến hết sức tích cực. Ví dụ, tại tỉnh Cao Bằng, năm 2000 chỉ có 685 trường hợp đăng ký khai sinh nhưng năm 2011 đã tăng lên 7.736 trường hợp, khai tử năm 2000 là 510 trường hợp thì năm 2011 đã tăng lên 927 trường hợp; Tại tỉnh Lào Cai, tính riêng đăng ký hộ tịch trong nước, năm 2000 số lượng khai sinh là 4.759 trường hợp, năm 2011 đã tăng lên 23.700 trường hợp, số lượng đăng ký kết hôn năm 2000 là 1.531 trường hợp thì đến năm 2011 đã tăng lên 5.329 trường hợp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt những thành tựu bước đầu. Công tác đăng ký hộ tịch trong hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nhà nước cũng như đăng ký các việc hộ tịch về hôn nhân và gia đình phát sinh giữ công dân Việt Nam với người nước ngoài[6]

Về công tác hộ tịch trong bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của những trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn trước thời điểm Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực, trên cơ sở thực thi Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 22/10/2001 Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 theo tinh thần đơn giản, thuận tiện để khuyến khích và tạo điều kiện cho các trường hợp này đăng ký kết hôn. Tiếp đó, ngày 10 tháng 12 năm 2001, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 07/2001/TT-BTP hướng dẫn cách thức, biện pháp tổ chức đăng ký kết hôn cho những trường hợp nói trên. Trong Chỉ thị số 01/2002/CT-BTP ngày 2/1/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp năm 2002, tại Mục 6 cũng đã nhấn mạnh việc "Hoàn thành về cơ bản đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ..."

Kết quả trong năm 2002, hầu hết 61/61 tỉnh, thành phố trong toàn quốc đã tổ chức rà soát, lập danh sách những trường hợp hôn nhân thực tế tại địa phương, phân loại theo hai đối tượng trước và sau ngày 3/1/1987 như Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Nghị định số 77/2001/NĐ-CP đã quy định. Theo báo cáo của 56/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính đến ngày 31/12/2002, các địa phương đã lập danh sách tổng cộng 925.753 trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ sau 3/1/1987 đến trước ngày 1/1/2001 (các đối tượng có nghĩa vụ đăng ký kết hôn theo Điểm b, Mục 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10); trong đó các địa phương đã cấp đăng ký kết hôn được 623.489 trường hợp (đạt 68%), còn lại 302.264 trường hợp chưa đăng ký (chiếm 32%).

Kết quả trên cho thấy việc thực hiện Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Nghị định số 77/2001/NĐ-CP về đăng ký hôn nhân thực tế cho thấy chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề hôn nhân thực tế được quy định trong các văn bản pháp luật nói trên là phù hợp với thực tế, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, tham gia thực hiện. Việc đăng ký hôn nhân thực tế cũng đã góp phần tăng cường quản lý nhà nước về công tác hộ tịch, hộ khẩu và các hoạt động quản lý khác của Nhà nước, bảo hộ các quyền về dân sự và hôn nhân, gia đình của người dân. Mặt khác, qua hoạt động đăng ký hôn nhân thực tế, ý thức pháp luật, đặc biệt là ý thức pháp luật về hôn nhân và gia đình của người dân được nâng lên một bước đáng kể.

Bên cạnh đó, để đảm bảo thuận tiện cho người dân thực hiện quyền của mình, Chính phủ cũng đã kịp thời tăng cường thể chế hóa, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để công tác hộ tịch đáp ứng ngày càng tốt hơn trong việc thực thi các quyền nhân thân nói chung, quyền về hôn nhân và gia đình nói riêng của cá nhân. Việc đơn giản hóa và công khai thủ tục đăng ký hộ tịch được thực hiện tại các cấp, ngành trong toàn quốc. Nghị định 83/1998/NĐ-CP đã có những quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch so với Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961, điều này không chỉ giúp cho các cơ quan đăng ký hộ tịch dễ dàng thực hiện mà còn tạo thuận lợi cho người dân trong việc chuẩn bị hồ sơ và cách thức liên hệ các cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP còn thể hiện cải cách hơn nữa về thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch: bỏ bớt nhiều loại giấy tờ không thực sự cần thiết trong thủ tục đăng ký hộ tịch; cá nhân được quyền ủy quyền cho người khác làm thủ tục đăng ký hộ tịch cho mình; cá nhân được đề nghị cấp bản sao giấy tờ hộ tịch qua đường bưu điện..). Mặt khác, các quy định về thẩm quyền, các giấy tờ phải có trong hồ sơ đăng ký hộ tịch, thời hạn giải quyết, lệ phí (nếu có)…đều được niêm yết công khai tại trụ sở các cơ quan đăng ký hộ giúp cho người dân dễ dàng tìm hiểu về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đối với từng loại việc hộ tịch.

Với những thành tựu trên, công tác hộ tịch đã góp phần quan trọng trong bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình của cá nhân thông qua xác nhận các sự kiện hộ tịch về: khai sinh, khai tử; kết hôn; nhận cha, mẹ, con; giám hộ …

Trong 12 năm thi hành Luật HN-GĐ, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Luật HN-GĐ nói riêng, pháp luật HN-GĐ nói chung giữ vị trí quan trọng trong nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật HN-GĐ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền và nhân dân. Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã tiến hành nhiều hoạt động thực hiện công tác này, như:

- Chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành chương trình, đề án, kế hoạch dài hạn, trung hạn về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, trong đó có Luật HN-GĐ;

- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan để tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về HN-GĐ nói riêng. Ví dụ: Bộ Tư pháp đã ký kết Chương trình hợp tác số 14 ngày 2/10/2002 với Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam về phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho phụ nữ, một trong các trọng tâm của chương trình này là phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý về hôn nhân và gia đình;

- Tổ chức xây dựng Đề cương Luật HN-GĐ gửi các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có liên quan;

- Biên soạn, phát hành tài liệu như tờ rơi, tờ gấp, sổ tay pháp luật về hôn nhân và gia đình cho cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân, chú trọng giới thiệu Luật HN-GĐ năm 2000 và những văn bản hướng dẫn mới ban hành; [7]

- Mở các lớp tập huấn, đào tạo cho các tuyên truyền viên, báo cáo viên ở trung ương và địa phương về công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung liên quan đến pháp luật hôn nhân và gia đình.

Tại các địa phương trên phạm vi toàn quốc, nhiều nơi đã thành lập các mô hình sinh hoạt cộng đồng như: Câu lạc bộ tiền hôn nhân, Câu lạc bộ không sinh con thứ ba, Câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật, Câu lạc bộ thanh niên với pháp luật mà một trong các hoạt động chính là tuyên truyền, phổ biến Luật HN-GĐ và các văn bản hướng dẫn. [8]

Cùng với các hoạt động của Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã chủ động tiến hành các hoạt động để thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình như tổ chức tập huấn cho cán bộ, công chức ở các cấp, tổ chức thi tìm hiểu Luật HN-GĐ. Đặc biệt, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã tổ chức thực hiện rất nhiều mô hình, hoạt động về phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình đến các cấp và hội viên, phụ nữ bằng nhiều hình thức đa dạng[9]. Ví dụ mô hình câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” đã được triển khai trên toàn quốc, đến thời điểm năm 2011 đã có 3.632 câu lạc bộ với 114.941 thành viên ở 43/63 tỉnh/thành.

Dưới góc độ quản lý nhà nước về gia đình, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật HN-GĐ đối với các dân tộc thiểu số đã quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người dân thuộc các dân tộc ít người. Ngày 03/1/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2013/NĐ-CP về công tác gia đình đã quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ, trong đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình trong phạm vi toàn quốc mà trọng tâm là xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về gia đình; hướng dẫn và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình… Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp cùng các bộ, ngành khác phối hợp với Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch trong việc xây dựng chính sách pháp luật về công tác gia đình trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.

- Về công tác xét xử ở cấp sơ thẩm

[...]