BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
106/BC-BTP
|
Hà Nội,
ngày 16 tháng 05 năm 2016
|
BÁO CÁO
KẾT
QUẢ CÔNG TÁC KIỂM TRA, XỬ LÝ, RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
NĂM 2015 VÀ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015; ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC GIAI ĐOẠN 2016-2021 VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2016
Kính gửi: Thủ tướng
Chính phủ
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) và rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL, trên cơ sở theo dõi, kiểm tra và tổng hợp báo cáo của
các Bộ,
cơ quan ngang Bộ và các địa phương, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện công
tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL trong năm
2015 và
giai đoạn 2011-2015; định hướng công tác giai đoạn 2016-2021 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2016 như sau:
Phần
thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TRONG NĂM 2015 VÀ GIAI ĐOẠN 2011-2015
A. CÔNG TÁC
CHỈ ĐẠO, HƯỚNG DẪN, KIỂM TRA VIỆC THỰC HIỆN
1. Từ năm 2011 đến 2015, Bộ Tư pháp đã
thường xuyên phối hợp với các Bộ: Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư, Nội Vụ tổ chức
các Đoàn công tác liên ngành của Bộ Tư pháp thực hiện kiểm tra, nắm tình hình
về việc triển khai thực hiện công tác xây dựng, ban hành và kiểm tra, xử lý, rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương. Riêng
trong năm 2015, Bộ đã tổ chức các Đoàn kiểm tra liên ngành thực hiện kiểm tra
tình hình thực hiện công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại 04
địa phương: Quảng Trị, Quảng Bình, Gia Lai, Kon Tum. Ngoài ra, các đoàn công
tác của Bộ (do Cục Kiểm tra văn bản QPPL chủ trì) đã tiến hành kiểm tra, hướng
dẫn thực hiện công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại
07 địa phương: Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Thuận.
Thông
qua việc kiểm tra trực tiếp tại các địa phương, Bộ Tư pháp đã kịp thời hướng
dẫn, giải quyết các vấn đề khó khăn vướng mắc trong thực hiện công tác soạn thảo,
ban hành, kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; trao đổi,
làm rõ các văn bản có dấu hiệu vi phạm về nội dung, thẩm quyền, hiệu lực và đề
nghị các địa phương tự tổ chức kiểm tra, xử lý và thông báo kết quả xử lý cho
Bộ Tư pháp; đối với các văn bản sai về thể thức, kỹ thuật trình bày, Bộ đã đề
nghị cơ quan ban hành nghiêm túc xem xét rút kinh nghiệm, đảm bảo ban hành văn
bản đúng quy định của pháp luật. Hoạt động kiểm tra trực tiếp của các Đoàn công tác
liên ngành do
Bộ Tư pháp chủ trì đã giúp Lãnh đạo các cơ quan cấp Bộ, UBND các địa
phương
nâng
cao nhận thức,
quan tâm hơn đối với việc triển khai thực hiện các công tác kiểm tra, xử
lý rà soát, hệ thống hóa văn bản, chỉ đạo các tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp khắc phục
những hạn chế,
yếu kém trong việc thực hiện các công tác nêu trên tại cơ quan, địa phương
mình.
Đồng thời với việc
kiểm tra trực tiếp, trong thời gian qua Bộ Tư pháp đã chủ trì tổ chức các lớp
tập huấn nghiệp vụ về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản cho các
công chức làm công tác này tại các cơ quan cấp Bộ và địa phương (năm 2015 tổ
chức 02 lớp tập huấn nghiệp vụ); phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trong việc
tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác kiểm tra, rà soát, hệ
thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL, cử nhiều
lượt lãnh đạo, công chức của Bộ tham gia tập huấn nghiệp vụ cho các bộ, ngành[1]. Ngoài ra, Bộ Tư pháp đã tổ
chức tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng rà soát thường xuyên, rà soát văn
bản QPPL theo chuyên
đề, lĩnh vực, địa bàn, hệ thống hóa văn bản QPPLvới sự tham
gia của đại diện tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, địa phương và đại diện một số
đơn vị thuộc Bộ trực tiếp làm công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật để trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng rà soát thường xuyên, rà soát văn
bản QPPL theo chuyên
đề, lĩnh vực, địa bàn, hệ thống hóa văn bản QPPL theo quy định
tại Nghị định số 16/2013/NĐ-CP và Thông tư
số 09/2013/TT-BTP.
2. Riêng đối với công tác rà soát, hệ
thống hóa văn bản QPPL, ngay sau khi Nghị định số 16/2013/NĐ-CP và Thông tư
số 09/2013/TT-BTP
được ban hành, Bộ Tư pháp đã thường xuyên đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc tổ
chức triển khai thực hiện công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các
Bộ, ngành, địa phương; tổ chức nghiên cứu, biên soạn các tài liệu hướng dẫn về
kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản (Chủ trì biên
soạn sách "Một số nội dung quy định về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL”;
Sổ tay tình huống nghiệp vụ về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL) nhằm giúp
các Bộ, ngành, địa phương triển khai thuận lợi các công tác này.
Tại Bộ Tư pháp, để bảo đảm triển khai kịp thời, thống
nhất và hiệu quả các nội dung của Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, Bộ đã ban hành Kế
hoạch triển khai thi hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP (Quyết định số 1051/QĐ-BTP
ngày 06/5/2013); Quy chế phối hợp công tác giữa các đơn vị thuộc Bộ trong việc
thực hiện công tác rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL” (Quyết định số
3044/QĐ-BTP ngày 13/11/2014). Riêng trong năm 2015, để tiếp tục tổ chức triển khai nhiệm vụ
rà soát, hệ thống văn bản QPPL theo Hiến pháp năm 2013 đối với các Bộ, ngành,
địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày
13/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ), Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số
11/BTP-KTrVB ngày 29/01/2015 gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương về việc
triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về cập nhật, xử lý
kết quả rà soát văn bản QPPL bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013[2].
Ngoài ra, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối
hợp, hướng dẫn các các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt
động sơ kết đánh
giá thực tiễn qua hơn 02 năm thực hiện Nghị định số 16/2013/NĐ-CP ngày
06/02/2013 của Chính phủ về rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL để làm cơ sở
cho việc xây dựng quy định về rà soát, hệ thống hóa văn bản tại dự thảo Nghị
định của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn
bản QPPL 2015, qua đó từng bước hoàn thiện thể chế về công tác rà soát, hệ
thống hóa văn bản, góp phần đưa công tác này đi vào nề nếp, đồng bộ, thống nhất, tạo cơ chế liên thông,
kết nối chặt chẽ giữa các hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL với xây dựng
và theo dõi thi hành pháp luật, hạn chế những khoảng trống của pháp luật,
bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật[3].
B. KẾT QUẢ
THỰC HIỆN
I.
VỀ THỂ CHẾ
Trong giai đoạn 2011-2015, việc xây dựng thể
chế chủ yếu tập trung về công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL do thể chế
về công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL đã cơ bản đầy đủ và hoàn thiện. Thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã tham mưu, xây dựng trình
Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 về rà soát, hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở Nghị định 16/2013, Bộ đã ban
hành Thông tư số 09/2013/TT-BTP ngày 15/6/2013 quy định chi tiết thi hành Nghị
định số 16/2013/NĐ-CP - đây là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai hoạt động
rà soát, hệ thống hóa văn bản nhằm phát hiện và xử lý quy định trái pháp
luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội; đồng thời tiến hành
hệ thống hóa, công bố các văn bản còn hiệu lực giúp công tác xây dựng,
áp dụng, thi hành pháp luật được hiệu quả, thuận tiện, tăng cường tính công
khai, minh bạch của hệ thống pháp luật. Nghị định 16/2013/NĐ-CP cùng với Nghị định
40/2010/NĐ- CP đã tạo ra công cụ, thiết chế quan trọng trong việc bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, thống
nhất, đồng bộ, phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội và dễ tiếp cận của hệ thống pháp
luật theo mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020.
Trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và
các địa phương cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn việc thực hiện công tác
kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại cơ quan, địa phương
mình, tạo hệ thống cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ giúp các công tác này được
triển khai thuận lợi trong thực tiễn.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tích cực hoàn thiện
các nội dung quy định về kiểm tra, xử lý rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại
dự thảo Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản
QPPL 2015, nhằm khẳng định mạnh mẽ vai trò và tầm quan trọng của các công tác
này trong cơ chế đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ của hệ
thống văn bản QPPL.
II.
VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN
1. Kết quả tự kiểm tra,
xử lý văn bản[4]
Theo tổng hợp từ báo cáo thống kê của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ và địa phương[5],
trong năm 2015 các Bộ, cơ quan ngang
Bộ (bao gồm cả Bộ Tư pháp) và địa phương đã tự kiểm tra được 107.463
văn bản, trong đó có 29.977 văn bản là văn bản QPPL. Cụ
thể: các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã tự kiểm tra được 4.135
văn bản (trong đó có 1.283 văn
bản QPPL); các địa phương tự kiểm tra được 103.328
văn bản (trong đó có 28.694 văn
bản QPPL).
Qua kiểm tra, toàn Ngành đã
phát hiện 561 văn bản trái pháp luật về thẩm quyền ban hành, nội dung
(trong đó 88 văn bản QPPL trái
pháp luật cả về thẩm quyền và nội dung; 149
văn bản QPPL trái pháp luật về thẩm quyền; 324
văn bản QPPL trái pháp luật về nội dung)[6].
Trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã xử lý xong 2.570
văn bản (trong đó có 2.361 văn bản đã được xử lý theo quy định của
pháp luật, số văn bản còn lại sai về kỹ thuật trình bày văn bản đã được cơ quan
ban hành xem xét, rút kinh nghiệm); còn lại 432 văn
bản trái pháp luật đang được cơ quan ban hành nghiên cứu, xử lý theo quy định.
2. Kết quả
kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền[7]
a) Kiểm tra
văn bản tại cơ quan kiểm tra do cơ quan ban hành gửi đến
Năm 2015,
trên cơ sở văn bản do
các cơ quan ban hành gửi đến, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ (bao gồm cả Bộ Tư pháp) và địa phương[8] đã kiểm tra được 66.849
văn bản; trong
đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ kiểm tra được 6.005
văn bản (trong đó có 5.858 văn
bản QPPL), các địa phương kiểm tra
được 60.844 văn bản (trong
đó có 30.415 văn
bản QPPL). Qua công tác kiểm tra văn
bản theo thẩm quyền, toàn Ngành đã phát
hiện 126 văn bản QPPL sai về cả thẩm quyền
ban hành và nội dung; 237 văn bản QPPL sai về thẩm quyền ban hành; 813 văn bản
QPPL sai về nội dung[9].
Trên cơ sở các văn bản đã phát hiện có
dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp pháp nêu trên, cơ quan kiểm
tra văn bản đã tiến hành phân loại và tùy vào mức độ vi phạm của văn bản mà tiến
hành xử lý văn bản đó theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử
lý văn bản theo quy định. Đối với những văn bản chỉ có dấu hiệu vi phạm về kỹ
thuật trình bày, cơ quan kiểm tra văn bản trao đổi với các cơ quan ban hành văn
bản xem xét, rút kinh nghiệm; đối với những văn bản có dấu hiệu vi phạm về căn
cứ pháp lý, thẩm quyền, nội dung, cơ quan kiểm tra văn bản đã tổ chức họp, thảo
luận, trao đổi trực tiếp với cơ quan đã ban hành văn bản và các cơ quan có liên
quan để thống nhất về nội dung có dấu hiệu vi phạm tính hợp pháp của văn bản và
biện pháp xử lý. Theo đó, trong năm 2015, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa
phương đã xử lý được 6.019 văn bản
(trong đó có 4.830 văn bản đã
được xử lý theo quy định của pháp luật, còn lại là số văn bản sai về kỹ thuật
trình bày văn bản đã được cơ quan ban hành văn bản xem xét, rút kinh nghiệm);
còn 1.166 văn bản cơ quan ban
hành đang nghiên
cứu để xử lý theo quy định.
Đối với Bộ Tư pháp:
Trong thời gian từ năm 2011 đến 2015,
Bộ Tư pháp đã kiểm tra theo thẩm quyền 2.679 văn bản của các Bộ, cơ quan ngang
bộ (Thông tư, Thông tư liên tịch và văn bản có chứa QPPL), 9.427 văn bản của địa phương; phát hiện
299 văn bản sai về nội dung, thẩm quyền ban hành, trong đó có 70 văn bản
là văn bản của các Bộ, ngành (chiếm 2,61% tổng số văn bản đã kiểm tra). Đến nay
các Bộ, ngành đã xử lý được 43/70 văn bản, đạt 61,43% tổng số văn bản sai về
thẩm quyền và nội dung đã phát hiện. Đối với những văn bản sai sót về thể thức,
kỹ thuật, việc kiến nghị xử lý văn bản chủ yếu được thực hiện thông qua các
cuộc họp, hội nghị tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ với hình thức đề nghị các
Bộ, ngành chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Trong tổng số văn bản đã được kiểm tra
trong giai đoạn này, có 115 văn bản là Thông tư, Thông tư liên tịch quy định
chi tiết thi hành luật, pháp lệnh; kết quả kiểm tra đã phát hiện 04 văn bản sai
về nội dung; đến nay 02 văn bản đã được xử lý[10],
01 văn bản đã có hướng xử lý[11],
còn 01 văn bản chưa có thông tin về kết quả xử lý[12]. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn
phát hiện và kiến nghị xử lý một số văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
có quy định không phù hợp với quy định của pháp luật[13].
Riêng trong năm 2015, trên cơ sở các
văn bản QPPL do các cơ quan cấp bộ và địa phương ban hành gửi đến Bộ Tư pháp để
kiểm tra theo thẩm quyền và từ các nguồn thông tin do công dân, cơ quan, tổ
chức, báo chí phản ánh, Bộ đã tiến hành kiểm tra 2.391 văn bản (gồm 590 văn bản
của Bộ, cơ quan ngang Bộ và 1.801 văn bản của địa phương), phát hiện 48 văn bản
trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền, hiệu lực, hình thức văn bản (trong đó
có 19 văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ và 29 văn bản của địa phương); 459 văn
bản sai sót về thể thức, kỹ thuật. Đến nay, có 14 văn bản trái pháp luật về nội
dung, thẩm quyền, hiệu lực, hình thức văn bản đã được xử lý, 34 văn bản còn lại
đang được Bộ tích cực theo dõi, đôn đốc cơ quan ban hành tự xử lý theo quy định
của pháp luật.
b) Kiểm tra văn bản theo địa bàn và
chuyên đề
Trong năm 2015, một số Bộ như Bộ Tài
chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn… và các địa phương như Hà Nội, TP
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Kon Tum… đã chú trọng tổ chức thực hiện kiểm tra văn
bản trực tiếp tại các cơ quan, đơn vị do mình quản lý và kiểm tra theo chuyên
đề, tập trung vào các lĩnh vực: Thuế, Tài nguyên - môi trường, thương mại, xây
dựng, giáo dục - đào tạo, dân tộc, văn hóa, y tế… Trên cơ sở đó ra kết
luận kiểm tra, thông báo văn bản sai, kiến nghị xử lý gửi đến cơ quan đã ban
hành văn bản và cơ quan có thẩm quyền để chỉ đạo thực hiện.
Đối với Bộ Tư pháp:
Trong giai đoạn 2011-2015, Bộ Tư pháp
đã tiến hành kiểm tra văn bản theo các chuyên đề như: Văn bản QPPL quy định về
đấu giá tài sản và bán đấu giá quyền sử dụng đất do các Bộ, cơ quan ngang Bộ và
địa phương ban hành; văn bản QPPL quy định về kinh doanh có điều kiện, điều
kiện kinh doanh; văn bản QPPL quy định về chống buôn lậu, gian lận thương mại,
hàng giả; văn bản QPPL quy định về thuế, hải quan…vv. Việc kiểm tra văn bản
theo chuyên đề đã từng bước bám sát kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất
nước; góp phần đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của hệ thống văn bản QPPL quy
định các lĩnh vực về bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện thể chế
thị trường, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Riêng trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển
khai thực hiện kiểm tra văn bản theo chuyên đề về chống buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng giả đối với 212 văn bản (gồm 22 văn bản của bộ, ngành và 190
văn bản của địa phương) và thực hiện kiểm tra tại 03 địa phương: TP. Hồ Chí Minh,
TP. Đà Nẵng và TP. Hải Phòng. Qua kiểm tra, Bộ đã phát hiện có 04 văn bản có
nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật, thông báo kiến nghị xử lý
đối với 03 văn bản do bộ, ngành ban hành; 01 văn bản của địa phương. Ngoài ra,
Bộ Tư pháp còn phát hiện 09 văn bản của địa phương có thể thức là quyết định cá
biệt nhưng nội dung chứa QPPL; 02 văn bản của bộ, ngành quy định về hiệu lực
thi hành không phù hợp với Luật Ban hành văn bản QPPL và một số văn bản khác
sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày. Trên cơ sở kiểm tra, Bộ Tư pháp đã
kiến nghị 77 văn bản cần được rà soát và xử lý theo quy định của pháp luật[14].
Về chuyên đề về lĩnh vực kinh doanh có điều
kiện, điều kiện kinh doanh, trên cơ sở kết quả kiểm tra, Bộ đã có Báo cáo số
23/BC-BTP ngày 29/01/2015 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra, kiến
nghị xử lý đối với 20 văn bản liên quan đến lĩnh vực kinh doanh có điều kiện,
điều kiện kinh doanh được ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung không phù
hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP
ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan; đồng thời kiến nghị rà
soát, xử lý đối với 34 văn bản khác vì văn bản làm căn cứ ban hành đã hết hiệu
lực hoặc đã được sửa đổi, thay thế dẫn đến nội dung văn bản không còn phù hợp.
Qua theo dõi việc tự kiểm tra, xử lý
của các Bộ, địa phương, Bộ Tư pháp thấy rằng: Về cơ bản, các Bộ và địa phương
đã tiếp thu ý kiến kiến nghị của Bộ Tư pháp và thực hiện việc tự kiểm tra, rà
soát văn bản được nêu tại Báo cáo số 23/BC-BTP. Tuy nhiên, vẫn còn một số văn
bản của Bộ, địa phương chưa thực hiện việc xử lý. Hiện nay Bộ Tư pháp đang tích
cực theo dõi, đôn đốc và phối hợp với các cơ quan liên quan để tiến hành xử lý
các văn bản không phù hợp với quy định của pháp luật đã được phát hiện nêu trên[15].
III. VỀ CÔNG TÁC RÀ
SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL
1. Về rà soát thường
xuyên
Trên cơ sở thông tin báo cáo gửi về Bộ Tư
pháp[16],
kết
quả rà soát văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương trong năm 2015 như sau:
a) Tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Tổng số văn bản phải được rà soát: 7.336 văn bản.
Số văn bản đã được rà soát: 7.336 văn
bản (đạt 100% số văn bản phải rà soát).
Trong đó:
+ Số văn bản còn hiệu lực (không bao
gồm văn bản hết hiệu lực một phần): 5.751 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực toàn bộ: 1.357 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực một phần: 229 văn
bản.
+ Số văn bản kiến nghị xử lý: 1.176 văn
bản (chiếm 20,5 % tổng số
văn bản còn hiệu lực).
Trong đó: Số văn bản đã xử lý: 856 (đạt 73%
số văn bản kiến nghị xử lý);
Số văn bản chưa xử lý: 320 (chiếm
27 % số văn bản kiến nghị xử lý).
b) Tại UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương
Tổng số văn bản phải được rà soát: 64.216 văn bản.
- Số văn bản đã được rà soát: 63.304 văn
bản (đạt 98,5 % số văn bản
phải rà soát).
Trong đó:
+ Số văn bản còn hiệu lực (không bao
gồm văn bản hết hiệu lực một phần): 50.990 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực toàn bộ: 10.707 văn
bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực một phần: 1.607 văn bản.
+ Số văn bản kiến nghị xử lý: 13.837 văn
bản (chiếm 27% tổng số văn
bản còn hiệu lực)
Trong đó: Số văn bản đã xử lý: 11.765 (đạt 85% số văn bản
kiến nghị xử lý);
Số văn bản chưa xử lý: 2.072 (chiếm
15% số văn bản
kiến nghị xử lý).
- Số văn bản chưa được rà soát: 912 văn bản
(chiếm 1,5% số văn bản
phải rà soát).
Trên cơ sở kết quả rà soát thường
xuyên, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã thực hiện định kỳ công bố văn
bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong năm 2015 theo quy định tại Điều 20
Nghị định số 16/2013/NĐ-CP[17].
Đối với Bộ Tư pháp:
Trong giai đoạn 2011 - 2015, thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp
với các đơn vị thuộc Bộ tiến hành rà soát thường xuyên các văn bản QPPL thuộc
trách nhiệm rà soát của Bộ Tư pháp. Qua rà soát đã phát hiện nhiều văn bản hết
hiệu lực thi hành, không còn phù hợp với quy định của pháp luật để kịp thời
kiến nghị cơ quan (người) có thẩm quyền xử lý. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp đã ký, ban hành 07 Quyết định công bố danh mục văn bản hết hiệu lực thi
hành (gồm 128 văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần). Việc công bố văn bản
hết hiệu lực thi hành được thực hiện định kỳ và gửi đăng công báo theo đúng quy
định,
góp phần giúp cho hệ thống pháp luật được minh bạch, dễ tiếp cận, tạo thuận lợi
cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước trong áp dụng.
Riêng trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã
rà soát và công bố Danh mục 23 văn bản QPPL hết hiệu lực toàn bộ; 15 văn bản
QPPL hết hiệu lực một phần thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ năm 2014[18].
2. Về rà soát theo chuyên đề, lĩnh vực, địa
bàn
Ngoài rà soát thường xuyên, một số Bộ,
cơ quan ngang Bộ, địa phương[19]
cũng đã chủ động tổ chức rà soát văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực, địa bàn phục
vụ nhu cầu quản lý nhà nước hoặc theo đề nghị, yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, như các chuyên đề: Tín ngưỡng, tôn giáo; Bán đấu giá tài sản và bán
đấu giá quyền sử dụng đất; Quản lý nhà nước về đối ngoại và hợp tác quốc tế; Thanh
tra, khiếu nại, tố cáo; Phòng, chống buôn lậu, gian lận, thương mại; Thuế, hải
quan; Xây dựng; rà soát văn bản liên quan đến quyền của nhóm người dễ bị tổn
thương; rà soát văn bản liên quan đến việc triển khai Luật Đất đai 2013...
Đối với Bộ Tư pháp:
Từ năm 2011 đến 2015, Bộ Tư pháp đã
thực hiện rà soát nhiều chuyên đề có ý nghĩa quan trọng, liên quan đến nhiều cơ
quan, đơn vị (Bộ, ngành, địa phương) với phạm vi văn bản QPPL được rà soát rất
lớn, như: Rà soát theo quy định tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011-2020[20];
Rà soát văn bản QPPL theo Hiến pháp năm 2013[21]; Tổ chức cập nhật
thường xuyên kết quả rà soát và hướng dẫn việc xử lý kết quả rà soát văn bản
QPPL bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 của các Bộ, ngành, địa phương theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 55/VPCP-PL ngày 09/01/2015 của
Văn phòng Chính phủ; Rà soát văn bản pháp luật về việc thực hiện chính sách,
pháp luật về giảm nghèo theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, Trưởng Ban
Chỉ đạo trung ương về giảm nghèo bền vững[22],
qua đó thực hiện việc xây dựng báo cáo kết quả rà soát văn bản chính sách pháp
luật về giảm nghèo, xây dựng kế hoạch đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách về
giảm nghèo bền vững; Tổ chức triển khai nhiệm vụ rà soát, lập danh mục văn bản
QPPL thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp có quy định về thủ tục hành
chính trái với Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP theo Quyết định số 1949/QĐ-BTP
ngày 20/8/2014 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày
20/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm
dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện
thủ tục hành chính.
Riêng trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã
thực hiện rà soát toàn diện các văn bản về cơ chế, chính sách dân tộc (theo yêu
cầu tại Công văn số 2662/VPCP-VIII ngày 17/4/2015 của VPCP). Theo đó, Bộ đã gửi
Ủy ban dân tộc kết quả rà soát văn bản, chính sách dân tộc và miền núi thuộc
lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ[23].
3. Về rà soát
văn bản theo Hiến pháp năm 2013
Trên cơ sở quy định tại Quyết định số
251/QĐ-TTg ngày 13/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2015, các
Bộ, cơ quan ngang Bộ và các địa phương tiếp tục tổ chức triển khai nhiệm vụ rà
soát và cập nhật, xử lý kết quả rà soát văn bản QPPL bảo đảm phù hợp với Hiến
pháp năm 2013 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Bộ Tư pháp và Công văn số
11/BTP-KTrVB ngày 29/01/2015 của Bộ Tư pháp gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa
phương về việc triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trên
cơ sở thông tin, báo cáo của các cơ quan và địa phương, Bộ Tư pháp đã và đang
chủ động theo dõi tình hình cập nhật kết quả rà soát và thực hiện việc xử lý
kết quả rà soát văn bản bảo đảm phù hợp với Hiến pháp.
4. Về hệ thống hóa văn bản kỳ đầu
thống nhất trong cả nước
Năm 2015, một số Bộ, cơ quan ngang Bộ
và địa phương chưa hoàn thành nhiệm vụ hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất
trong cả nước theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP[24] tiếp tục
thực hiện nhiệm vụ này theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (tại Công văn số
7145/VPCP-PL ngày 15/9/2014 của Văn phòng Chính phủ về việc thông báo ý kiến
của Thủ tướng về tình hình hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật kỳ đầu thống
nhất trong cả nước). Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Công
văn đôn đốc của Bộ Tư pháp[25]. Đến nay, các
Bộ, ngành và địa phương đã cơ bản hoàn thành việc hệ thống hóa văn bản, thực
hiện việc công bố kết quả hệ thống hóa văn bản và tham mưu cơ quan có thẩm quyền
ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản
để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Đối với Bộ Tư pháp:
Trong giai đoạn 2011-2015, Bộ Tư pháp
đã trực tiếp tổ chức triển khai nhiệm vụ hệ thống hóa văn bản QPPL kỳ đầu thống
nhất trong cả nước theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định số
16/2013/NĐ-CP, ban hành Quyết định số 480/QĐ-BTP ngày 03/3/2014 công bố kết quả
hệ thống hóa văn bản thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đến hết
ngày 31/12/2013, bảo đảm yêu cầu về thời gian công bố kết quả hệ thống hóa văn
bản QPPL của Bộ Tư pháp.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả hệ thống
hóa văn bản QPPL do các Bộ, ngành, địa phương thực hiện, ngày 19/8/2014, Bộ Tư
pháp đã có Báo cáo số 209/BC-BTP ngày 19/8/2014 báo cáo Thủ tướng Chính phủ
tình hình hệ thống hóa văn bản QPPL kỳ đầu thống nhất trong cả nước. Đồng thời, Bộ
đã đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương xử lý các văn bản kiến nghị sửa đổi, bổ
sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau hệ thống hóa kỳ đầu, cập nhật số
liệu báo cáo Bộ Tư pháp tổng hợp chung. Ngoài ra, Bộ Tư pháp đã tổ chức hệ
thống hóa các văn bản QPPL còn hiệu lực thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ
Tư pháp tính đến hết ngày 30/6/2015 phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư
pháp (Quyết định số 1665/QĐ-BTP ngày 17/9/2015 về việc công bố Danh mục văn bản
QPPL còn hiệu lực thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp tính đến hết
ngày 30/6/2015 với tổng số 317 văn bản còn hiệu lực bao gồm cả văn bản hết hiệu
lực một phần.
Nhìn chung, kết quả rà soát, hệ
thống hóa văn bản được thực hiện trong thời gian qua đã góp phần thực hiện mục
tiêu xây dựng hệ thống pháp luật công khai, minh bạch, tạo điều kiện để người
dân có thể tiếp cận được hệ thống pháp luật được thuận tiện, dễ dàng. Thông qua
việc rà soát, hệ thống hóa văn bản, các cơ quan nhà nước có thể đánh giá, hoàn
thiện về thể chế, xây dựng một hệ thống pháp luật minh bạch, đồng bộ, khả thi,
đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Phần
thứ hai
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
A. ĐÁNH GIÁ CHUNG
I. VỀ CÔNG TÁC KIỂM
TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QPPL
1. Đối với Bộ Tư pháp
Thực hiện chức năng
được Chính phủ giao, Bộ Tư pháp đã thực hiện đồng bộ các mặt công tác quản lý
nhà nước về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi cả nước
như xây dựng, hoàn thiện thể chế; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
tại các Bộ, ngành, địa phương. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền
tại Bộ Tư pháp ngày càng được đẩy mạnh, có trọng tâm, trọng điểm, nhất là lĩnh
vực, văn bản có biểu hiện lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, lĩnh vực
pháp luật cần ưu tiên hoàn thiện thể chế; bảo đảm sự gắn kết giữa công tác kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật với công tác theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát
thủ tục hành chính.
Việc kiểm tra văn bản đã từng bước bám
sát kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước; chú trọng các lĩnh vực về
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện thể chế thị trường, cải
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh (tài chính, ngân hàng, đất đai, xây dựng,
xử lý vi phạm hành chính...). Qua kiểm tra đã xử lý kịp thời nhiều văn bản có
nội dung trái pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức và cá nhân[26],
đồng thời góp phần
nâng cao nhận thức của cơ quan ban hành văn bản về tuân thủ quy trình, đảm bảo
chất lượng ban hành văn bản QPPL. Hoạt động kiểm tra, xử lý văn
bản cũng đã góp phần tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của
công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
Công tác kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ Tư
pháp đã được thực hiện ngày càng kịp thời, chặt chẽ hơn,
theo sát thực tế của việc ban hành văn bản; chú
trọng kiểm tra văn bản theo chuyên
đề, địa bàn, lĩnh vực có tác động trực
tiếp, rộng rãi đến người dân và tổ chức, cần quan tâm giải quyết.
Hoạt động kiểm tra của Bộ đã góp phần định hướng dư
luận, phản biện xã hội về tình hình ban hành, thực thi văn bản QPPL; phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan ban hành văn bản, các cơ quan thông tin, báo chí và
các tổ chức, cá nhân khác nhằm tiếp nhận và kịp thời xử lý các thông tin về văn
bản có dấu hiệu trái pháp luật, văn bản không phù hợp, không khả thi trong thực
tế gây trở ngại, bất lợi cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức trong thực tế.
2. Đối với
các Bộ, ngành và địa phương
Kết quả công tác kiểm
tra văn bản thời
gian qua đã
khẳng định tính đúng đắn của việc xác lập cơ chế này trong hệ thống cơ
quan hành
chính nhà nước (từ
năm 2003 đến nay). Qua kiểm tra, theo dõi, Bộ Tư pháp thấy rằng:
sau Hội nghị tổng kết 10 năm công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL (2003 -
2013), với sự
quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp, lãnh
đạo các cấp, các ngành, công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trong toàn quốc
đã có sự chuyển biến đáng kể. Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác
kiểm tra, xử lý văn bản của Lãnh đạo các Bộ và địa phương đã từng bước được
nâng cao, nhiều cơ quan đã quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm công tác tự kiểm
tra, xử lý văn bản do cơ quan mình ban hành và tập trung kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL theo thẩm quyền đối với văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa
phương thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình; bước đầu triển khai có hiệu quả
các nhiệm vụ, giải pháp, đặc biệt là công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế của
Bộ, ngành về kiểm tra, xử lý văn bản; bố trí biên chế để tổ chức thực hiện
nhiệm vụ; tập huấn công tác kiểm tra, xử lý văn bản cho cán bộ của ngành. Công
tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL tại các Bộ, ngành và địa phương đã được tổ
chức triển khai thực hiện theo kế hoạch hàng năm gắn với việc rà soát, hệ thống
hóa văn bản QPPL.
2.1. Các công
tác phục vụ hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản
theo quy định như: Xây dựng thể chế, tổ chức
bộ máy, bố trí biên
chế và kinh phí tiếp tục được các Bộ, ngành và địa phương quan
tâm củng cố, hoàn thiện, tạo điều kiện để từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của công tác kiểm tra, xử lý văn bản.
Trên cơ sở quy định của Nghị định
số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL
và các văn bản QPPL liên quan[27], đến nay hầu hết
các Bộ,
ngành và 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành các văn
bản quy định cụ thể về trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, tổ
chức, biên chế, cộng tác viên, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác tạo điều
kiện thuận lợi và phù hợp cho việc triển khai công tác này ở Bộ, ngành và địa
phương mình,
chỉ
một số ít các Bộ, ngành chưa xây dựng thể chế về công tác kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL tại cơ quan mình
(hoặc không báo cáo về Bộ Tư pháp)[28].
2.2. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản đã được các Bộ, cơ
quan ngang Bộ,
các
địa
phương
chú trọng tăng cường, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức
xúc. Một số Bộ, cơ quan ngang Bộ đã quan tâm chỉ đạo Vụ Pháp chế kịp thời phát
hiện, ngăn chặn những sai sót ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
thông qua công tác góp ý, thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính các dự thảo
văn bản. Trong quá trình thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản bảo đảm phối hợp
chặt chẽ giữa đơn vị chủ trì soạn thảo với tổ chức pháp chế của Bộ, các Sở ở
địa phương và phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp để thực hiện có hiệu
quả công tác soạn thảo, thẩm định, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
theo quy định của pháp luật.
2.3. Một số địa phương đã chú trọng triển khai tương đối
đồng bộ, tích cực công tác kiểm tra, xử lý văn bản kết hợp với việc rà soát và
hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn, qua đó tạo cơ sở để kịp
thời thống nhất về cơ chế, chính sách, góp phần củng cố hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, đảm bảo an ninh trật tự,
an toàn xã hội tại địa phương, tạo môi trường và hành lang pháp lý đảm bảo cho
việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thuận lợi, nâng cao đời sống về tinh
thần, vật chất cho người dân. Kết quả kiểm tra, xử lý văn bản đã góp phần
quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và doanh
nghiệp, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đồng thời, đã góp phần nâng cao
nhận thức của các cơ quan hành chính nhà nước, làm cho các cơ quan chú trọng
hơn trong việc tuân thủ kỷ luật kỷ cương trong quá trình soạn thảo, ban hành
văn bản.
2.4. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã quan tâm
tổ chức kiểm tra văn bản theo thẩm quyền. Việc gửi văn bản để cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra đã bước đầu được chấn chỉnh; công tác phối hợp trong kiểm tra
văn bản cũng được tăng cường. Nhìn chung, công tác xử lý văn bản QPPL đã được
các Bộ, ngành, địa phương chú trọng hơn, khi nhận được thông báo về văn bản có
dấu hiệu trái pháp luật đã tổ chức tự kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật
theo quy định; đặc biệt, qua kiểm tra tại Cục Kiểm tra văn bản QPPL (Bộ Tư
pháp), sau khi trao đổi, thảo luận tại cuộc họp, một số Bộ đã tiếp thu ý kiến
ngay và khẩn trương có phương án xử lý đúng quy định; ngoài ra, các thông tin,
số liệu về tình hình xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật được phân tích cụ
thể hơn, giảm việc báo cáo chung chung…
II.
VỀ CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN
1. Từ sau
khi Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, công tác rà soát, hệ thống
hóa văn bản đã được các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương quan tâm, triển khai
thực hiện hiệu quả hơn. Trong giai đoạn 2011-2015, các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
địa phương đã tập trung thực hiện 02 nhiệm vụ lớn đó là hệ thống hóa văn bản kỳ
đầu thống nhất trong cả nước và rà soát toàn bộ hệ thống văn bản để bảo đảm phù
hợp với Hiến pháp năm 2013. Thông qua việc thực hiện hai nhiệm vụ trên, toàn bộ
hệ thống văn bản từ trung ương đến địa phương đã được rà soát một cách tổng
thể, từ đó phát hiện những văn bản có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp
luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội để kịp
thời xử lý, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ của hệ thống
pháp luật. Cũng thông qua hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản nêu trên, các
cơ quan nhà nước đánh giá được chất lượng công tác xây dựng, ban hành văn bản
thuộc trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa của cơ quan mình. Hiện nay, trên cơ sở
kết quả hệ thống hóa văn bản, rà soát văn bản theo Hiến pháp năm 2013, các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, địa phương đang tiến hành xử lý các văn bản cần sửa đổi, bổ
sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
2. Công tác
rà soát thường xuyên theo văn bản là căn cứ pháp lý và rà soát căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế - xã hội được các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương từng
bước triển khai bài bản, kịp thời.
Ngoài ra, một số Bộ, cơ quan ngang Bộ,
địa phương cũng đã chủ động tổ chức rà soát văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực,
địa bàn phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước hoặc theo đề nghị, yêu cầu của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, như các chuyên đề: Rà soát văn bản phục vụ tổng kết
thực tiễn thi hành Luật Thương mại năm 2005; rà soát văn bản nhằm hoàn thiện
Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện; rà soát các văn bản đối với nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương; rà soát giấy phép thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn; rà soát văn bản để xây dựng Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư; rà
soát văn bản về bán đấu giá tài sản và bán đấu giá quyền sử dụng đất; rà soát
văn bản liên quan đến lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch; rà soát các văn
bản thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ Xây dựng, Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và
truyền thống, Ngân hàng nhà nước...
3. Tại cấp huyện, cấp xã, công tác rà soát
văn bản đã từng bước được triển khai theo quy định. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc rà soát văn bản đối với việc xây dựng, áp dụng và thi hành pháp
luật cũng như mức độ khó khăn, phức tạp của nghiệp vụ rà soát văn bản, trong thời gian qua, Sở Tư pháp
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chủ động tham mưu UBND cấp mình tổ
chức các lớp tập huấn nghiệp vụ rà soát cho cán bộ tư pháp cấp huyện, cấp xã,
đồng thời quán triệt nội dung các quy định của Nghị định số 16/2013/NĐ-CP và
Thông tư số 09/2013/TT-BTP. Thông qua một số hoạt động như hệ thống hóa văn bản
kỳ đầu thống nhất trong cả nước, định kỳ công bố danh mục văn bản hết hiệu lực
toàn bộ hoặc một phần hàng năm có thể thấy cấp huyện, cấp xã tại một số địa
phương đã thực hiện tương đối tốt công tác rà soát văn bản như thành phố Hồ Chí
Minh, Bắc Giang...Tuy nhiên, việc triển khai công tác này tại phần lớn cấp
huyện, cấp xã còn nhiều hạn chế, nhiều địa phương còn chưa thực hiện, thậm chí
còn nhầm lẫn giữa hoạt động kiểm tra văn bản và rà soát văn bản.
B. HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN
I. VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN
QPPL
1. Hạn chế, khó khăn
Thứ nhất, một số văn bản có nội
dung
trái pháp luật chưa được phát hiện kịp thời hoặc đã phát hiện
nhưng chưa được xử lý đúng hình thức và thời hạn xử lý theo quy định.
Thứ hai, việc khắc
phục hậu quả của
văn
bản trái pháp luật gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; việc xử lý trách
nhiệm của cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật mới chỉ dừng ở mức
phê bình, nhắc nhở, kiểm điểm công chức khi thi hành công vụ; chưa có quy định
cụ thể để thực hiện được các hình thức trách nhiệm nghiêm khắc hơn.
Thứ ba, chưa gắn
kết chặt chẽ, hiệu quả hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản với các hoạt động khác
có liên quan trong chu trình xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành pháp luật.
2. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân chủ
quan:
Thứ nhất, việc chấp
hành kỷ cương trong công tác soạn thảo, ban hành văn bản tại một số Bộ, ngành
chưa nghiêm;
Thứ hai, nhận
thức và tinh thần trách nhiệm chưa cao của một số cơ quan ban hành văn bản (dẫn
đến việc tuân thủ không nghiêm quy định về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; gửi văn bản
đến cơ quan có thẩm quyền kiểm tra không đầy đủ, kịp thời; chưa quan
tâm đúng mức trong bố trí biên chế, kinh phí cho công tác này);
Thứ ba, đội ngũ
cán bộ, công chức kiểm tra, xử lý văn bản còn thiếu, nhất là thiếu công chức có
kiến
thức, kinh nghiệm chuyên sâu về pháp luật và các lĩnh vực kinh tế, xã hội liên
quan. Việc xây dựng, sử dụng đội ngũ cộng tác viên chưa hiệu quả; chưa hình
thành được đội ngũ cộng tác viên là các chuyên gia, nhà khoa học có chuyên môn
sâu về pháp luật và các lĩnh vực liên quan;
Thứ tư, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm tra văn bản còn
chưa hiệu quả, chưa tương xứng với tiềm năng.
b. Nguyên
nhân khách quan:
Thứ nhất, văn bản do
các Bộ, ngành, địa phương ban hành có xu hướng tăng. Mặt khác, nhiều vấn đề mới
nảy sinh từ thực tiễn kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, làm cho việc xây
dựng, ban hành văn bản của các Bộ, ngành, địa phương để quản lý
ngành, lĩnh vực, quản lý địa phương gặp khó khăn (nhất là về tài chính,
ngân hàng, đất đai, tài nguyên, môi trường...), trong khi
năng lực của đội ngũ công chức soạn thảo văn bản còn hạn chế, dẫn đến văn bản
trái pháp luật có xu hướng tăng, nội dung sai phạm phức tạp;
Thứ hai, thể chế về
soạn thảo, ban hành văn bản còn khiếm khuyết, nhất là việc xác định
bản chất quy phạm pháp luật, giá trị pháp lý (hiệu lực) của văn bản khi có sự
thay đổi (hết hiệu lực) của văn bản cấp trên (những bất cập này về cơ bản đã
được giải quyết trong Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2016);
Thứ ba, kiểm tra,
xử lý văn bản là công việc phức tạp, tiềm ẩn nhiều vấn đề “nhạy cảm”, “đụng
chạm” lợi ích nhiều ngành, nhiều cấp, đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu,
nhận thức về kinh tế - xã hội, kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp; trong khi đó điều kiện
bảo đảm, nhất là chính sách thu hút, đãi ngộ cán bộ, công chức làm công tác này
còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng yêu cầu nhiệm vụ;
Thứ tư, thẩm
quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc xử lý văn bản trái pháp luật nhìn
chung còn ở mức độ “kiến nghị”, “đề nghị” xử lý văn bản trái pháp luật,
do đó việc xử lý văn bản trái pháp luật chưa có hiệu quả cao.
II. VỀ CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA
VĂN BẢN
1. Hạn chế, khó khăn
Thứ nhất: Nhiều Bộ,
cơ quan ngang Bộ, địa phương còn lúng túng về cách thức triển khai, kỹ năng
nghiệp vụ về rà soát văn bản QPPL, chỉ mới thực hiện rà soát hiệu lực của văn
bản mà chưa thực hiện rà soát phần nội dung để phát hiện các quy định chưa phù
hợp, trái, mâu thuẫn, chồng chéo với các căn cứ rà soát để xử lý hoặc kiến nghị
cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo đúng quy định. Điều này làm giảm hiệu
quả, ý nghĩa của công tác rà soát đối với việc xây dựng và thi hành pháp luật.
Việc thống kê số liệu về rà soát chưa chính xác, chưa phản ánh đúng thực chất
việc triển khai công tác này trên thực tế.
Thứ hai: Công tác
rà soát văn bản chưa thực sự gắn kết với công tác xây dựng, theo dõi thi hành
pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính.
Thứ ba: Hầu hết
các cơ quan chưa xây dựng được Cơ sở dữ liệu rà soát, hệ thống hóa văn bản bao
gồm các nội dung như văn bản phục vụ rà soát, hệ thống hóa, thông tin về tình
trạng pháp lý của văn bản, hồ sơ rà soát văn bản, kết quả hệ thống hóa văn bản
theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, hoặc nếu có xây
dựng thì chỉ mới ở dưới hình thức lưu trữ dữ liệu thô, dưới hình thức văn bản.
2. Nguyên nhân:
a) Nguyên nhân chủ quan:
- Việc hiểu, thực hiện, theo dõi hoạt
động rà soát, hệ thống hóa văn bản tại nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương
chưa đầy đủ, chưa đúng quy định của Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, Thông tư số
09/2013/TT-BTP. Nhận thức về trách nhiệm thực hiện, tầm quan trọng của công tác
rà soát, hệ thống hóa văn bản tại một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, có nơi
coi đây là nhiệm vụ chỉ của cơ quan tư pháp và tổ chức pháp chế nên không chủ
động, tích cực thực hiện nhiệm vụ, thiếu sự phối hợp giữa cơ quan chuyên môn
với tổ chức pháp chế, cơ quan tư pháp trong triển khai hệ thống hóa; sự phối
hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nhiều khi còn chưa kịp thời, ảnh hưởng đến tiến độ và chất
lượng rà soát, hệ thống hóa văn bản.
- Dù đã được bố trí
biên chế để triển khai thực hiện, tuy nhiên cơ cấu tổ chức của các
cơ quan có trách nhiệm thực hiện hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản còn chưa được kiện toàn. Số
lượng biên chế chuyên trách làm công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản còn thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ,
phần lớn mới chỉ bố trí được một đến hai biên chế và chủ yếu là kiêm nhiệm,
trong khi tổ chức pháp chế, cơ quan tư pháp hiện nay đang được giao thực hiện
rất nhiều nhiệm vụ mới. Ngoài ra, công việc rà soát văn bản là công việc khó,
đòi hỏi người rà soát không chỉ có kiến thức về pháp luật mà còn phải có kiến
thức chuyên môn về lĩnh vực văn bản điều chỉnh.
b) Nguyên nhân khách quan:
- Hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn
bản QPPL là nhiệm vụ tương đối khó khăn, phức tạp và lần đầu được triển khai
trên diện rộng từ trung ương đến địa phương, thống nhất trong cả nước; việc xác
định và tập hợp đầy đủ các văn bản để rà soát hoặc văn bản phục vụ hệ thống hóa
gặp nhiều khó khăn, do việc lưu trữ các văn bản thuộc nguồn văn bản phục vụ rà
soát, hệ thống hóa theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP tại các
cơ quan, đơn vị có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa văn bản còn nhiều bất cập.
Ngoài ra, việc xác định tình trạng pháp lý của văn bản được rà soát gặp nhiều
khó khăn do nhiều văn bản được ban hành chưa tuân thủ đúng quy định về kỹ thuật
xây dựng văn bản, đặc biệt là quy định về hiệu lực của văn bản hoặc được ban
hành trước khi Luật Ban hành văn bản QPPL năm 1996 có hiệu lực, nhiều trường
hợp chưa phân định được là văn bản QPPL hay văn bản hành chính; bên cạnh đó, có
văn bản được sửa đổi, bổ sung rất nhiều lần nhưng chưa có văn bản thay thế đã
gây khó khăn cho việc xác định các nội dung hết hiệu lực và còn hiệu lực. Hơn
nữa, với việc pháp luật cho phép nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản
QPPL và với số lượng văn bản QPPL lớn như hiện nay thì để phát hiện ra những
nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp, bảo đảm sự thống nhất, minh
bạch của hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ không dễ dàng. Qua hoạt động rà
soát văn bản cho thấy, đang tồn tại không ít văn bản có nội dung chồng chéo,
mâu thuẫn cũng như không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiều văn bản được ban hành đã lâu, nội dung đã được điều chỉnh tại văn bản
khác, song chưa được xử lý về mặt hiệu lực, thậm chí nhiều văn bản không xác
định được tình trạng hiệu lực cũng như các thông tin khác liên quan đến văn
bản. Bên cạnh đó, các cơ sở dữ liệu rà soát, hệ thống hóa văn bản bao gồm tất
cả các nội dung quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP vẫn ở
dưới hình thức lưu trữ văn bản (trừ nội dung văn bản phục vụ rà soát, hệ thống
hóa và thông tin về tình trạng pháp lý của văn bản), chưa được tin học hóa, do
đó gây hạn chế trong việc quản lý tài liệu và tra cứu kết quả rà soát, hệ thống
hóa.
-
Hiện nay, quy định về hỗ trợ kinh phí cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn
bản được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP. Tuy nhiên,
nhiều nội dung chi tại Thông tư còn chưa rõ ràng, cụ thể hoặc chưa đầy đủ dẫn
đến việc nhiều cơ quan chưa dành kinh phí thỏa đáng cho công tác này. Trong khi
đó, đây là công việc hết sức nặng nề, không chỉ thuộc trách nhiệm của tổ chức
pháp chế hay cơ quan tư pháp mà là trách nhiệm của tất cả cơ quan, đơn vị
chuyên môn được giao quản lý nhà nước, tham mưu cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản QPPL.
Phần
thứ ba
ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC GIAI ĐOẠN 2016-2021 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2016
A. ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC GIAI
ĐOẠN 2016-2021
Trong thời gian 05
năm tới (từ 2016 đến 2021), Đảng và Nhà nước ta xác định phải tạo ra sự chuyển
biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả hơn trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, hoàn thiện thể chế và tổ chức
thực hiện nghiêm pháp luật theo các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp năm
2013. Đây
cũng là giai đoạn cuối thực hiện Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân”.
Do đó, Chính phủ cần chú
trọng thực hiện ngày càng có chất lượng hiệu quả hơn công tác kiểm tra, rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL nhằm góp phần đắc lực hiện thực hóa các quy định và
tinh thần của Hiến pháp 2013; xây dựng, hoàn thiện pháp luật; bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính khả thi, phù hợp với thực tiễn cuộc sống của văn bản
QPPL; bảo đảm tính thượng tôn và hiệu quả của pháp luật trong đời sống xã hội,
tạo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch trong quản lý nhà nước cũng như
trong thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, thuận lợi cho
người dân, doanh nghiệp.
Để thực hiện được
định hướng đó, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập,
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản
QPPL, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cả về thể chế, tổ chức cán bộ, công
tác chuyên môn, nghiệp vụ và các điều kiện bảo đảm với lộ trình phù hợp; có
giải pháp cần thực hiện ngay và hoàn thành trong thời gian tới, bao gồm các
giải pháp chính sau đây:
1. Nâng
cao nhận thức, đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn
bản QPPL; phát huy tốt hơn nữa vai trò của cấp ủy các cấp trong chỉ đạo thực
hiện công tác này.
2. Thực hiện kiểm tra kịp thời,
xác định các lĩnh vực trọng tâm kiểm tra văn bản gắn với giải pháp của Chính
phủ về chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các
văn quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị định (trong thời gian tới
cần tập trung vào các lĩnh vực như: bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
hoàn thiện thể chế thị trường, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tuân thủ điều ước quốc tế để thúc đẩy tiến
trình hội nhập...); Thực hiện nghiêm túc quy định về kiểm tra, xử lý, rà soát,
hệ thống hóa văn bản theo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và và biện
pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
3. Chú trọng tổ chức triển khai
công tác rà soát văn bản, ngay khi có căn cứ rà soát theo quy định, kịp thời xử
lý hoặc kiến nghị các cơ quan, người có thẩm quyền xử lý kết quả rà soát văn
bản, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
4. Đổi mới quy trình kiểm tra, xử lý
văn bản, với các nội dung chính: (i) bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành kịp thời,
thông suốt trong công tác kiểm tra văn bản, nhất là việc kết luận tính hợp pháp
và thông báo, kiến nghị xử lý văn bản; (ii) thực hiện hiệu quả việc tiếp
nhận thông tin phản ánh về văn bản trái pháp luật; tăng cường phối hợp với các
phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền giúp người dân hiểu đúng,
đầy đủ về văn bản có dấu hiệu sai phạm, tránh hiểu phiến diện, gây bức xúc dư
luận (iii) thực hiện hiệu quả ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác kiểm tra văn bản; khai thác hiệu quả tiện ích
của Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, kết hợp với Công báo điện tử để cập
nhật và thực hiện kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời văn bản trái pháp luật
(iv) gắn kết chặt chẽ công tác kiểm tra văn bản với công tác soạn thảo, thẩm
định văn bản, kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật, hình
thành cơ chế đồng bộ trong việc theo dõi, phát hiện, xử lý văn bản trái pháp
luật.
5. Thực hiện các biện pháp tăng cường
hiệu quả xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật: kiên quyết xử lý văn bản
trái pháp luật, nhất là những trường hợp nội dung trái pháp luật xâm hại quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, xã hội; tăng cường
việc kiểm
điểm làm rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị để xảy ra
tình trạng ban hành văn bản sai phạm; đưa thông tin về kết quả kiểm tra,
xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật tại các cuộc họp báo của Chính phủ.
6. Tăng
cường các điều kiện bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa
văn bản: (i) tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ kiểm
tra văn bản chuyên
sâu theo lĩnh vực pháp luật; (ii) xây dựng và sử dụng hiệu quả mạng lưới
cộng tác viên là các chuyên gia, nhà khoa học tại các đơn vị xây dựng pháp
luật, cơ sở đào tạo, nghiên cứu, bao gồm cả các chuyên gia, nhà khoa học thuộc
các lĩnh vực kinh tế, xã hội có liên quan ngoài luật; (iii) đề xuất giải pháp điều chỉnh
hợp lý chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức làm công tác pháp chế nói
chung và công tác kiểm tra, rà soát văn bản nói riêng.
7. Ban hành theo thẩm quyền của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản
sửa đổi các quy định hiện hành về về kiểm tra, xử lý văn bản để phù hợp với
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015, Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015, tạo cơ sở pháp lý đầy
đủ, thống nhất, đồng bộ, khả thi, hiệu quả cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL.
B. PHƯƠNG
HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2016
1. Tích cực thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ kiểm tra văn bản QPPL được quy định tại Nghị quyết số 75/2014/QH13
ngày 24/6/2014 của Quốc hội (Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại
kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đối với việc triển khai thi hành Hiến pháp;
công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát
thủ tục hành chính) và Quyết định số 1246/QĐ-TTg ngày 24/7/2014 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số
75/2014/QH13 của Quốc hội.
2. Bám sát nội
dung chương trình công tác năm 2016 của ngành Tư pháp,
sự
chỉ
đạo của Chính
phủ, Thủ
tướng Chính phủ về đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan
ngang Bộ và
địa phương. Chú trọng
kiểm
tra văn bản theo một số chuyên đề thuộc những lĩnh vực kinh tế - xã hội có
nhiều bức xúc,
có
tác động trực tiếp, rộng rãi đến người dân và tổ chức, cần quan tâm giải quyết
như: Đất đai; quản lý khai thác khoáng
sản; phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại; thuế, hải quan...vv. Chỉ
đạo, đôn đốc quyết
liệt trong việc tự kiểm tra, xử lý kịp thời, triệt để và đúng quy định đối với
các văn bản đã được kiểm tra, phát hiện trái pháp luật; đề cao tính chịu trách
nhiệm của cá nhân, cơ quan ban hành văn bản QPPL.
3. Tăng cường thực hiện toàn diện,
đồng bộ, có hiệu quả nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các Bộ, ngành, địa
phương trong các công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản
QPPL và pháp điển hệ thống QPPL; thực hiện hiệu quả việc theo dõi, nắm bắt tình
hình triển khai các mặt công tác nêu trên của Sở Tư pháp các địa phương và tổ
chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để kịp thời có
giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của các công tác này.
4. Tập trung thực hiện công tác kiểm
tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền, nhất là các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh và kiểm tra văn bản theo các nguồn thông
tin. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc và theo dõi việc xử lý các văn bản trái pháp
luật của các Bộ, ngành, địa phương.
5. Các Bộ, ngành, địa phương tổ chức
thực hiện rà soát văn bản QPPL theo một số chuyên đề, trọng tâm là các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của cơ quan, địa phương mình mà Quốc hội vừa
thông qua luật (bộ luật) trong năm 2015 và dự kiến thông qua luật (bộ luật)
trong năm 2016. Thực hiện gắn kết giữa công tác kiểm tra, rà soát văn
bản QPPL với công tác kiểm soát TTHC và theo dõi thi hành pháp luật để kịp thời
phát hiện văn bản trái pháp luật và khắc phục những điểm chồng chéo, thiếu đồng
bộ, khả thi của hệ thống văn bản QPPL.
6. Bộ Tư pháp nghiên cứu, thực hiện
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, đặc biệt
trong việc nắm thông tin, số liệu về tình hình công tác kiểm tra, xử lý và rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; thiết lập cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp
ban hành.
Phần
thứ tư
ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Căn cứ vào tình hình thực tế việc thực
hiện các công tác: Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL và rà soát, hệ thống hóa văn
bản QPPL, để đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn các công tác này trong thời
gian tới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, qua đó góp phần tích cực phục vụ
việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Bộ Tư pháp xin kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương thực hiện tốt các
nội dung sau:
I. ĐỀ
XUẤT, KIẾN NGHỊ CHUNG
1. Quán triệt, nâng cao nhận thức về
vai trò, tầm quan trọng của các công tác: Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đảm bảo đồng
bộ, thống nhất, khả thi, dễ tiếp cận.
2. Triển khai thực hiện kịp thời,
nghiêm túc các quy định về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL tại Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành luật ban hành văn bản QPPL năm 2015.
3. Trong phạm vi thẩm quyền, trách
nhiệm được giao, quan tâm bố trí biên chế và kinh phí phù hợp để đảm bảo thực
hiện tốt các công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL và rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL; chú trọng bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ để không ngừng
nâng cao năng lực cho công chức thực hiện các công tác nêu trên nhằm đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ.
4. Thực hiện nghiêm túc, kịp thời, bảo
đảm chất lượng việc báo cáo công tác và thống kê số liệu về kiểm tra, xử lý xử
lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển
hệ thống QPPl
theo quy định để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
II. ĐỀ
XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TỪNG CÔNG TÁC CỤ THỂ
1. Đối với
công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
1.1. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội (Nghị quyết về chất
vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đối với việc triển
khai thi hành Hiến pháp; công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính) và Quyết định số
1246/QĐ-TTg ngày 24/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai
thực hiện Nghị quyết số 75/2014/QH13 của Quốc hội.
Quan tâm và thực hiện nghiêm túc các
quy định của pháp luật trong công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra,
xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công
tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Tăng cường,
gắn kết công tác kiểm tra, rà soát văn bản với theo dõi thi hành pháp luật và
kiểm soát thủ tục hành chính để kịp thời phát hiện những nội dung trái pháp
luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp để kịp thời kiến nghị các
biện pháp xử lý, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Xác định công tác kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các Bộ, ngành, địa phương;
chú trọng công tác phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp
thực hiện tốt chức năng giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác kiểm tra,
xử lý văn bản QPPL nói riêng và các chức năng, nhiệm vụ khác của Bộ, của ngành
Tư pháp nói chung.
1.2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND
cấp tỉnh phải thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật trong khâu soạn thảo,
ban hành, thẩm định, kiểm tra văn bản; xử lý kịp thời và triệt để các văn bản
có nội dung trái pháp luật đã được xác định, đặc biệt là các văn bản có liên quan
trực tiếp, ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức.
1.3. Thực hiện nghiêm việc xem xét, xử lý trách
nhiệm đối với cán bộ, công chức tham mưu soạn thảo, thẩm định, trình ban hành văn
bản trái pháp luật; xử lý đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái
pháp luật nhưng không xử lý hoặc xử lý không đúng quy định pháp luật.
2. Đối với công tác
rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL
2.1. Đẩy mạnh công tác rà soát văn
bản, ngay khi có căn cứ rà soát theo quy định, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị
các cơ quan, người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban
hành văn bản mới, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Thực hiện nghiêm
túc việc xử lý kết quả rà soát văn bản theo Hiến pháp năm 2013.
2.2. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ
giữa công tác rà soát văn bản với công tác xây dựng, kiểm tra, xử lý văn bản,
theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính.
2.3. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa
các Bộ, ngành, địa phương, giữa các cơ quan, đơn vị chuyên môn trực thuộc Bộ,
ngành, địa phương với cơ quan tư pháp, tổ chức pháp chế trong công tác rà soát,
hệ thống hóa văn bản nhằm bảo đảm chất lượng công tác này.
2.4. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ cần chủ động xây dựng Cơ sở dữ liệu về rà soát, hệ thống hóa
văn bản bao gồm các nội dung như: văn bản phục vụ rà soát, hệ thống hóa, thông
tin về tình trạng pháp lý của văn bản, hồ sơ rà soát văn bản, kết quả hệ thống
hóa văn bản theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP.
2.5. UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương tăng cường theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc triển
khai công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản tại cấp huyện, cấp xã.
Trên đây là Báo cáo của Bộ Tư pháp về tình hình thực hiện công
tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL trong
năm 2015 và
giai đoạn 2011-2015; định hướng công tác giai đoạn 2016-2021 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2016, kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo./.
Nơi nhận:
-
Như trên (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng Bộ Tư pháp (để biết);
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Lưu: VT, Cục KTrVB.
|
KT. BỘ
TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đinh
Trung Tụng
|
FILE ĐƯỢC
ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|