Thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động được quy định cụ thể trong luật hiện hành như thế nào?
Nội dung chính
Thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động được quy định cụ thể trong luật hiện hành như thế nào?
Sau khi xem xét và căn cứ vào hồ sơ của ông Sinh cho thấy ông Sinh đã được giải quyết nghỉ việc vì mất sức lao động với thời gian công tác liên tục là 16 năm 11 tháng.
Năm 1987, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Bình giới thiệu ông Sinh giám định lại khả năng lao động. Tại biên bản giám định lại khả năng lao động số 755/GĐYK ngày 29/5/1987 của Hội đồng Giám định y khoa tỉnh Thái Bình kết luận khả năng lao động của ông Nguyễn Văn Sinh thuộc hạng C (41%), sức khỏe đã phục hồi.
Tại Điều 16 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ quy định):
“Công nhân, viên chức nghỉ việc vì mất sức lao động, được xác định sức khỏe đã hồi phục, thì thôi hưởng trợ cấp hàng tháng.
Những người không được cơ quan, xí nghiệp tiếp nhận lại làm việc thì cơ quan, xí nghiệp cũ trợ cấp thôi việc một lần; cứ mỗi năm công tác được trợ cấp bằng 1 tháng lương và các khoản phụ cấp (nếu có) tính trên số năm công tác trừ đi số thời gian đã hưởng trợ cấp hàng tháng”.
Đối với trường hợp của ông Nguyễn Văn Sinh không thuộc đối tượng xét hưởng trợ cấp theo Quyết định số 613/2010/QĐ-TTg ngày 6/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cấp hàng tháng cho những người có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tế đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động.