Thời gian hưởng chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến đã phục viên, xuất ngũ được tính ra sao theo pháp luật hiện hành?

Thời gian hưởng chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến đã phục viên, xuất ngũ được tính ra sao theo pháp luật hiện hành?

Nội dung chính

    Thời gian hưởng chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến đã phục viên, xuất ngũ được tính ra sao theo pháp luật hiện hành?

    Theo quy định hiện hành thì thì quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhập ngũ từ ngày 30/4/1975 trở về trước, có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương, hiện không thuộc diện hưởng chế độ hưu trí, chế độ mất sức lao động hoặc chế độ bệnh binh hàng tháng, thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    - Đã phục viên, xuất ngũ về địa phương;

    - Đã chuyển ngành rồi thôi việc;

    - Đã phục viên, xuất ngũ một thời gian rồi tiếp tục công tác (tái ngũ; làm việc ở cơ quan, đơn vị, tổ chức ngoài quân đội), sau đó lại phục viên, xuất ngũ, thôi việc.

    Theo đó, trường hợp quân nhân được hưởng chế độ theo quy định trên thì thời gian tính hưởng chế độ của quân nhân được thực hiện quy định tại Mục II Thông tư liên tịch 144/2008/BQP-BLĐTBXH-BTC, cụ thể như sau:

    - Thời gian tính hưởng chế độ là thời gian công tác thực tế trong quân đội từ khi nhập ngũ đến khi phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành.

    Đối với các trường hợp chuyển ngành rồi thôi việc; hoặc đã phục viên, xuất ngũ một thời gian rồi tiếp tục công tác (như: tái ngũ; làm việc ở cơ quan, đơn vị, tổ chức ngoài quân đội), sau đó lại phục viên, xuất ngũ, thôi việc, thì thời gian chuyển ngành và thời gian làm việc ngoài quân đội không được tính hưởng chế độ.

    - Thời gian công tác thực tế trong quân đội nếu gián đoạn được cộng dồn để tính hưởng chế độ.

    - Thời gian hưởng chế độ trợ cấp một lần, nếu có tháng lẻ thì đủ 6 tháng trở lên được tính là một năm, dưới 6 tháng được tính là nửa năm (1/2 năm).

    15