Quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc "Việt Nam trong tôi là" trước công chúng trực tiếp là gì?

Quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc "Việt Nam trong tôi là" trước công chúng trực tiếp là gì? Chữ viết Tiếng Việt trong tác phẩm âm nhạc có phải là di sản văn hóa phi vật thể không?

Nội dung chính

    Quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc "Việt Nam trong tôi là" trước công chúng trực tiếp là gì? 

    Căn cứ Điều 15 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định như sau:

    Điều 15. Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ được hiểu như sau:
    1. Đối với tác phẩm thể hiện bằng ngôn ngữ, tác phẩm thể hiện dưới dạng chữ viết quy định tại các điểm a và b khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc thuyết trình, trình bày làm cho công chúng tiếp cận, cảm nhận được tác phẩm bằng thính giác nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm, bao gồm cả việc cảm nhận từ bên ngoài không gian nơi đang diễn ra việc thuyết trình, trình bày qua màn hình, loa hoặc thiết bị kỹ thuật tương tự.
    2. Đối với tác phẩm âm nhạc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc biểu diễn làm cho công chúng tiếp cận, cảm nhận được tác phẩm bằng thính giác hoặc trình bày tác phẩm trên sân khấu cho công chúng nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm, bao gồm cả việc cảm nhận từ bên ngoài không gian nơi đang diễn ra việc biểu diễn qua màn hình, loa hoặc thiết bị kỹ thuật tương tự.
    3. Đối với tác phẩm điện ảnh quy định tại điểm e khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc trình chiếu làm cho công chúng tiếp cận, cảm nhận được tác phẩm điện ảnh thông qua các phương tiện kỹ thuật nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm.
    4. Đối với tác phẩm mỹ thuật, tác phẩm nhiếp ảnh quy định tại các điểm g và h khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc triển lãm, trưng bày, trình chiếu để công chúng xem bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm.

    Như vậy, quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc "Việt Nam trong tôi là" trước công chúng trực tiếp là quyền của chủ sở hữu tác phẩm hoặc người được ủy quyền thực hiện việc trình diễn, làm cho công chúng tiếp cận và cảm nhận tác phẩm bằng thính giác. Công chúng có thể nghe tác phẩm tại địa điểm biểu diễn nhưng không có quyền tự do lựa chọn thời gian hoặc từng phần tác phẩm.

    Điều này cũng áp dụng cho việc công chúng tiếp cận tác phẩm âm nhạc "Việt Nam trong tôi là" qua loa, màn hình hoặc thiết bị kỹ thuật khác bên ngoài không gian diễn ra buổi biểu diễn.

    "Việt Nam trong tôi là" là bài hát được sáng tác và trình bày bởi Ca - Nhạc sĩ Yến Lê.

    Quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc

    Quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc "Việt Nam trong tôi là" trước công chúng trực tiếp là gì? (Hình từ Internet)

    Chữ viết Tiếng Việt trong tác phẩm âm nhạc có phải là di sản văn hóa phi vật thể không?

    Căn cứ khoản 1 Điều 2 Nghị định 98/2010/NĐ-CP quy định như sau:

    Điều 2. Di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể
    1. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
    a) Tiếng nói, chữ viết;
    b) Ngữ văn dân gian;
    c) Nghệ thuật trình diễn dân gian;
    d) Tập quán xã hội và tín ngưỡng;
    đ) Lễ hội truyền thống;
    e) Nghề thủ công truyền thống;
    d) Tri thức dân gian.
    2. Di sản văn hóa vật thể bao gồm:
    a) Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích);
    b) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

    Theo đó, chữ viết Tiếng Việt trong tác phẩm âm nhạc được xem là một Di sản văn hóa phi vật thể.

    Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với đối tượng nào?

    Căn cứ khoản 1 Điều 4 Luật Di sản văn hóa 2001 được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi 2009 quy định như sau:

    Điều 4
    Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
    1. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
    2. Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
    3. Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
    4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
    5. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
    6. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
    [...]

    Như vậy, di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.

    Chuyên viên pháp lý Nguyễn Xuân An Giang
    saved-content
    unsaved-content
    109