Nghệ thuật Chèo ra đời ở đâu? Sự ra đời của nghệ thuật Chèo Thái Bình?
Nội dung chính
Nghệ thuật Chèo ra đời ở đâu?
Chèo ra đời ở châu thổ Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng – nơi được coi là cái nôi của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
(1) Nguồn gốc hình thành nghệ thuật Chèo
- Chèo có nguồn gốc từ các trò diễn dân gian, hát kể chuyện của người Việt cổ. Theo nhiều tài liệu, Chèo xuất hiện từ thời nhà Đinh – Tiền Lê (thế kỷ X) và dần phát triển thành một loại hình sân khấu dân gian mang đậm bản sắc văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Ban đầu, Chèo chỉ là những hình thức hát kể đơn giản, phục vụ sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt trong các lễ hội làng. Đến thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XIII), nghệ thuật Chèo phát triển mạnh mẽ nhờ sự khuyến khích của triều đình và sự tham gia của các nghệ nhân dân gian.
(2) Các trung tâm Chèo truyền thống
- Các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh được xem là trung tâm của nghệ thuật Chèo cổ truyền. Trong đó:
+ Nam Định, Hà Nam: Nổi tiếng với nhiều vở Chèo cổ như “Quan Âm Thị Kính”, “Kim Nham”, “Lưu Bình – Dương Lễ”.
+ Thái Bình: Được coi là “quê hương của Chèo”, nơi sản sinh nhiều nghệ nhân Chèo xuất sắc và có Đoàn Chèo Thái Bình nổi tiếng.
+ Ninh Bình: Là nơi lưu giữ nhiều làn điệu Chèo cổ, kết hợp giữa diễn xuất và hát kể chuyện.
(3) Đặc trưng của Chèo
- Nội dung: Phản ánh đời sống lao động, tình yêu quê hương, đất nước và đề cao đạo đức, nhân nghĩa. Các vở Chèo thường mang tính giáo dục, hướng con người đến cái thiện.
- Lối diễn xuất: Mang tính kể chuyện, kết hợp giữa hát, múa, đối thoại và biểu cảm sân khấu. Nghệ sĩ Chèo thường dùng những động tác ước lệ, tượng trưng để diễn đạt tâm lý nhân vật.
- Làn điệu Chèo: Gồm nhiều điệu hát phong phú như Điệu Đào Liễu, Hành Vân, Con Nhện Giăng Mùng, tạo nên sự hấp dẫn đặc trưng của Chèo.
- Không gian biểu diễn: Chèo ban đầu được biểu diễn tại sân đình, trong các lễ hội làng. Về sau, Chèo được đưa vào sân khấu chuyên nghiệp nhưng vẫn giữ được chất dân gian, mộc mạc.
(4) Sự phát triển của nghệ thuật Chèo
- Thời phong kiến: Chèo phát triển chủ yếu trong dân gian, được truyền dạy qua các phường Chèo, các nghệ nhân trong làng.
- Thời hiện đại: Chèo trở thành loại hình nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp với nhiều đoàn Chèo lớn như Đoàn Chèo Thái Bình, Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Hà Nội.
- Ngày nay: Nghệ thuật Chèo vẫn tiếp tục được bảo tồn và phát triển, trở thành di sản văn hóa phi vật thể quan trọng của Việt Nam.
Kết luận:
Nghệ thuật Chèo ra đời ở châu thổ Bắc Bộ, gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua hàng thế kỷ, Chèo vẫn giữ được sức sống bền bỉ, góp phần làm phong phú nền văn hóa nghệ thuật dân tộc.
Nghệ thuật Chèo ra đời ở đâu? Sự ra đời của nghệ thuật Chèo Thái Bình? (Hình từ Internet)
Sự ra đời của nghệ thuật Chèo Thái Bình?
- Nghệ thuật Chèo Thái Bình có nguồn gốc từ thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh vào thời Lý - Trần, gắn liền với đời sống văn hóa dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đây được coi là một trong những cái nôi của Chèo Việt Nam, với nhiều làng Chèo nổi tiếng như Khuốc, Đào Động, Nguyên Xá (Đông Hưng, Thái Bình).
- Chèo Thái Bình mang phong cách diễn xuất sinh động, ngôn ngữ trào lộng, gần gũi với đời sống nông thôn, cùng hệ thống làn điệu phong phú. Trải qua nhiều thế kỷ, nghệ thuật này vẫn được lưu giữ và phát triển, không chỉ trong các lễ hội truyền thống mà còn trên sân khấu chuyên nghiệp. Hiện nay, Đoàn Chèo Thái Bình cùng các câu lạc bộ Chèo làng xã đang góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật độc đáo này.
Điều chỉnh các bảng giá đất đối với đất ở tại đô thị trên địa bàn tỉnh Thái Bình như thế nào?
Căn cứ Quyết định 29/2024/QĐ-UBND điều chỉnh Bảng giá đất ở tại đô thị được quy định Chi tiết tại Bảng 03-1, Bảng 03-2, Bảng 03-3, Bảng 03-4, Bảng 03-5, Bảng 03-6, Bảng 03-7, Bảng 03-8 kèm theo Quyết định 22/2019/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thái Bình; trong đó:
- Giá đất ở được xác định theo vị trí của tùng thửa đất như sau:
+ Vị trí 1 (VT1): Áp dụng cho các thửa đất ở có ít nhất một cạnh tiếp giáp với vỉa hè hoặc mép hiện trạng của đường, phố hoặc đoạn đường, phố.
+ Vị trí 2 (VT2): Áp dụng cho các thửa đất ở có ít nhất một cạnh tiếp giáp với mép hiện trạng ngõ, ngách, hẻm chiều rộng từ 4,0m trở lên đi ra đường, phố.
+ Vị trí 3 (VT3): Áp dụng cho các thửa đất ở có ít nhất một mặt tiếp giáp với mép hiện trạng ngõ, ngách, hẻm chiều rộng từ 2,0m đến dưới 4,0m đi ra đường, phố.
+ Vị trí 4 (VT4): Áp dụng cho các thửa đất ở có ít nhất một cạnh tiếp giáp với mép hiện trạng ngõ, ngách, hẻm chiều rộng dưới 2,0m đi ra đường, phố và các thửa đất còn lại.
- Giá đất của thửa đất ở tại vị trí 2, hoặc vị trí 3, hoặc vị trí 4 mà cách mép vỉa hè (hoặc mép hiện trạng của đường, phố) về phía thửa đất:
+ Dưới 100m: Giá đất được tính bằng mức giá đất của vị trí đó.
+ Từ 100m đến dưới 200m: Giá đất được tính bằng 0,8 lần mức giá đất của vị trí đó.
+ Từ 200m trở lên: Giá đất được tính bằng 0,6 lần mức giá đất của vị trí đó.
- Giá đất sau khi xác định theo quy định tại (2) không thấp hơn mức giá thấp nhất tại Bảng giá đất của đô thị đó.