Khoản thu nhập nào phải quyết toán thuế thu nhập cá nhân?
Nội dung chính
Theo quy định tại Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 thì thu nhập của cá nhân phải chịu thuế thu nhập cá nhân sẽ gồm các loại thu nhập sau đây: Thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ trúng thưởng; thu nhập từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại; thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng; thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Việc đăng ký thuế, kê khai, khấu trừ thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế thu nhập cá nhân và các biện pháp quản lý thuế thu nhập cá nhân được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Theo quy định tại Thông tư 111/2013/TT-BTC thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân và cá nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân thực hiện khai thuế và quyết toán thuế theo hướng dẫn về thủ tục, hồ sơ tại văn bản hướng dẫn về quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc khai thuế, quyết toán thuế thực hiện theo quy định tại Điều 26 Thông tư 111/2013/TT-BTC và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Theo đó, Theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công, kinh doanh có trách nhiệm khai quyết toán thuế nếu có số thuế phải nộp thêm hoặc có số thuế nộp thừa đề nghị hoàn thuế hoặc bù trừ thuế vào kỳ khai thuế tiếp theo, trừ các trường hợp sau:
- Cá nhân có số thuế phải nộp nhỏ hơn số thuế đã tạm nộp mà không có yêu cầu hoàn thuế hoặc bù trừ thuế vào kỳ sau.
- Cá nhân, hộ kinh doanh chỉ có một nguồn thu nhập từ kinh doanh đã thực hiện nộp thuế theo phương pháp khoán.
- Cá nhân, hộ gia đình chỉ có thu nhập từ việc cho thuê nhà, cho thuê quyền sử dụng đất đã thực hiện nộp thuế theo kê khai tại nơi có nhà, quyền sử dụng đất cho thuê.
- Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên tại một đơn vị mà có thêm thu nhập vãng lai ở các nơi khác bình quân tháng trong năm không quá 10 triệu đồng đã được đơn vị trả thu nhập khấu trừ thuế tại nguồn theo tỷ lệ 10% nếu không có yêu cầu thì không quyết toán thuế đối với phần thu nhập này.
- Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên tại một đơn vị mà có thêm thu nhập từ cho thuê nhà, cho thuê quyền sử dụng đất có doanh thu bình quân tháng trong năm không quá 20 triệu đồng đã nộp thuế tại nơi có nhà cho thuê, có quyền sử dụng đất cho thuê nếu không có yêu cầu thì không quyết toán thuế đối với phần thu nhập này.
Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì có thể thấy pháp luật hiện hành chỉ quy định cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công, kinh doanh có trách nhiệm khai quyết toán thuế nếu có số thuế phải nộp thêm hoặc có số thuế nộp thừa đề nghị hoàn thuế hoặc bù trừ thuế vào kỳ khai thuế tiếp theo, trừ các trường hợp kể trên.
Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư 92/2015/TT-BTC thì hiện nay, cá nhân kinh doanh sẽ nộp thuế khoán hoặc thuế theo từng lần phát sinh, nên các khoản thu nhập từ kinh doanh sẽ không phải quyết toán thuế thu nhập cá nhân.
Do đó: Hiện nay, chỉ có khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công thì mới phải thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân hàng năm. Còn đối với các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân còn lại thì không phải thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân hàng năm.
Trên đây là quan điểm tư vấn của chúng tôi đối với vấn đề mà bạn đang thắc mắc.
Trân trọng!