Đất đai hiện nay là một dạng của tài sản công đúng không?

Chuyên viên pháp lý: Nguyễn Xuân An Giang
Tham vấn bởi Luật sư: Phạm Thanh Hữu
Đất đai hiện nay là một dạng của tài sản công đúng không? Công dân Việt Nam có được quyền sở hữu đất đai hay không?

Nội dung chính

    Đất đai hiện nay là một dạng của tài sản công đúng không?

    Căn cứ khoản 7 Điều 4 Luật Quản lý sử dụng tài sản công 2017 quy định như sau:

    Điều 4. Phân loại tài sản công
    Tài sản công tại Luật này được phân loại như sau:
    [...]
    7. Đất đai; tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, kho số viễn thông và kho số khác phục vụ quản lý nhà nước, tài nguyên Internet, phổ tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh và các tài nguyên khác do Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, đất đai là một dạng của tài sản công do Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật.

    Đất đai hiện nay là một dạng của tài sản công đúng không?

    Đất đai hiện nay là một dạng của tài sản công đúng không? (Hình từ Internet)

    Công dân Việt Nam có được quyền sở hữu đất đai hay không?

    Căn cứ Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định như sau:

    Điều 53.
    Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nuyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

    Và căn cứ Điều 197 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

    Điều 197. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân
    Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

    Đồng thời, căn cứ Điều 12 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:

    Điều 12. Sở hữu đất đai
    Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.

    Bên cạnh đó, căn cứ khoản 3 Điều 4 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:

    Điều 4. Người sử dụng đất
    Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; đang sử dụng đất ổn định, đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất mà chưa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; nhận quyền sử dụng đất; thuê lại đất theo quy định của Luật này, bao gồm:
    [...]
    3. Cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam (sau đây gọi là cá nhân);
    [...]

    Theo đó, đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân và công dân Việt Nam chỉ có quyền sử dụng đất do Nhà nước trao theo các hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất,…

    Như vậy, công dân chỉ là người sử dụng đất, không phải là chủ sở hữu đất đai. Chỉ có Nhà nước với vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai mới có quyền định đoạt đất đai.

    Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai phải thông qua những cơ quan nào?

    Căn cứ Điều 14 Luật đất đai 2024 quy định như sau:

    Điều 14. Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai
    Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định của Luật này và luật khác có liên quan thông qua các cơ quan sau đây:
    1. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch sử dụng đất quốc gia; thực hiện quyền giám sát đối với việc quản lý, sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước;
    2. Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền thông qua quy hoạch sử dụng đất của địa phương mình trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; thông qua việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của địa phương theo thẩm quyền; thông qua việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất theo thẩm quyền quy định của Luật này; quyết định bảng giá đất; giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai tại địa phương;
    3. Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định của Luật này và luật khác có liên quan.

    Như vậy, Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai phải thông qua các cơ quan dưới đây:

    - Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch sử dụng đất quốc gia; thực hiện quyền giám sát đối với việc quản lý, sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước

    - Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền thông qua quy hoạch sử dụng đất của địa phương mình trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; thông qua việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của địa phương theo thẩm quyền; thông qua việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất theo thẩm quyền quy định của Luật này; quyết định bảng giá đất; giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai tại địa phương

    - Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định của Luật này và luật khác có liên quan.

    saved-content
    unsaved-content
    34