Mẫu bài nghị luận về tinh thần tương thân tương ái trong cuộc sống
Nội dung chính
Mẫu bài nghị luận về tinh thần tương thân tương ái trong cuộc sống
Bài nghị luận mẫu 1
Trong cuộc sống, không ai có thể tồn tại một mình mà thiếu đi sự sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau. Tinh thần tương thân tương ái – lá lành đùm lá rách – chính là một giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đây là phẩm chất thể hiện lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ những ai gặp khó khăn, hoạn nạn để cùng nhau vượt qua nghịch cảnh.
Cuộc sống vốn không phải lúc nào cũng màu hồng. Sẽ có những lúc ai đó gặp phải tai ương, bệnh tật hay cảnh nghèo khổ bủa vây.
Lúc ấy, những hành động nhỏ như quyên góp, ủng hộ, hay đơn giản chỉ là sự quan tâm, động viên cũng trở thành nguồn sức mạnh to lớn giúp người khác vượt qua khó khăn.
Hình ảnh người dân khắp nơi hỗ trợ đồng bào vùng lũ lụt, những chiến sĩ áo trắng nơi tuyến đầu chống dịch hay các chương trình thiện nguyện… chính là biểu hiện đẹp đẽ của tinh thần tương thân tương ái.
Có thể nói, tương thân tương ái không chỉ mang lại niềm vui cho người nhận mà còn làm đẹp tâm hồn người cho đi.
Cuộc sống sẽ tốt đẹp và đáng sống hơn khi ai cũng biết sống vì nhau, biết san sẻ và yêu thương. Mỗi người hãy học cách đồng cảm, mở rộng lòng mình để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh. Bởi lẽ, yêu thương là thứ duy nhất cho đi mà chẳng bao giờ vơi cạn.
Bài nghị luận mẫu 2
“Tương thân tương ái” – một truyền thống đạo lý quý báu của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay vẫn được giữ gìn và phát huy mạnh mẽ trong cuộc sống hiện đại.Đó là tinh thần sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, cùng nhau vượt qua thử thách để xây dựng một xã hội nhân ái, tốt đẹp hơn.
Trong xã hội ngày nay, không thiếu những hoàn cảnh bất hạnh, những người nghèo khó, bệnh tật cần được quan tâm. Chúng ta có thể bắt gặp những nghĩa cử cao đẹp như chương trình “Cơm 0 đồng”, quán “Bánh mì miễn phí”, hay những đợt kêu gọi cứu trợ đồng bào vùng thiên tai. Những việc làm ấy tuy nhỏ nhưng lại chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc.
Sống tương thân tương ái không chỉ giúp đỡ người khác, mà còn nuôi dưỡng tâm hồn mình trở nên cao thượng và nhân hậu hơn. Một xã hội sẽ văn minh, tiến bộ hơn nếu mỗi người biết yêu thương, chia sẻ. Bởi vậy, hãy tập cho mình thói quen quan tâm đến những mảnh đời kém may mắn và hành động thiết thực để lan tỏa yêu thương.
Bài nghị luận mẫu 3
Một trong những truyền thống đạo lý đáng tự hào của dân tộc Việt Nam là tinh thần tương thân tương ái. Đây là phẩm chất cao đẹp thể hiện lòng nhân ái, sự sẻ chia giữa người với người, cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Trong hành trình sống, không phải ai cũng may mắn đầy đủ. Có người giàu sang, nhưng cũng có người cơ cực, thiếu thốn. Khi người khác gặp khó khăn, hoạn nạn, nếu mỗi chúng ta đều dang tay giúp đỡ, chắc chắn mọi gian nan sẽ vơi bớt phần nào. Hình ảnh đẹp về tinh thần tương thân tương ái được thể hiện rất rõ qua những hoạt động thiện nguyện, giúp đỡ đồng bào vùng thiên tai, quyên góp cứu trợ bệnh nhân nghèo, trẻ em mồ côi…
Tinh thần tương thân tương ái chính là sợi dây gắn kết con người lại với nhau, giúp xã hội thêm bền vững, hạnh phúc. Mỗi chúng ta hãy bắt đầu từ những hành động nhỏ nhất, như giúp đỡ bạn bè, san sẻ khó khăn với những người xung quanh. Bởi lẽ, “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Bài nghị luận mẫu 4
Từ xa xưa, tinh thần “tương thân tương ái” đã trở thành một giá trị đạo đức truyền thống không thể thiếu của người Việt Nam. Đây là sự thể hiện tình yêu thương, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn để cùng nhau vượt qua gian khổ.
Cuộc sống chẳng ai biết trước được điều gì. Hôm nay người khác khổ, ngày mai có thể là chính mình gặp nạn. Vì vậy, khi chúng ta dang tay giúp đỡ ai đó, cũng là đang xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn cho chính mình. Những hình ảnh giản dị như quyên góp áo ấm cho trẻ em vùng cao, giúp đỡ người nghèo ăn Tết, hay đơn giản là chia sẻ bữa cơm với người vô gia cư đều là những minh chứng đẹp đẽ cho tinh thần tương thân tương ái.
Giúp đỡ người khác không phải việc gì to tát. Đôi khi chỉ là lời động viên đúng lúc, hành động nhỏ bé nhưng chân thành cũng đủ sưởi ấm một trái tim. Mỗi người hãy luôn nuôi dưỡng lòng nhân ái, bởi cuộc sống ngắn ngủi này trở nên ý nghĩa hơn khi ta biết sẻ chia.
Xem thêm >>> Nghị luận văn học là gì? Dàn ý nghị luận văn học chọn lọc, hay nhất? Cách làm nghị luận văn học?
Mẫu bài nghị luận về tinh thần tương thân tương ái trong cuộc sống (Hình từ Internet)
Bài nghị luận mẫu 5
“Tương thân tương ái” – bốn chữ ngắn gọn nhưng chứa đựng cả một triết lý sống đẹp. Trong xã hội hiện đại, tinh thần này lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết khi vẫn còn biết bao mảnh đời bất hạnh cần được giúp đỡ.
Hàng năm, đất nước ta phải đối mặt với thiên tai, bão lũ, hạn hán. Mỗi khi như vậy, tinh thần tương thân tương ái lại bùng lên mạnh mẽ, khi người dân cả nước chung tay góp sức giúp đỡ đồng bào gặp nạn. Có người góp công, người góp của, người góp từng lời động viên để sẻ chia. Điều đó không chỉ giúp người khác vượt qua khó khăn mà còn làm đẹp thêm hình ảnh con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Giá trị của lòng yêu thương không bao giờ cạn kiệt. Khi cho đi yêu thương, ta sẽ nhận lại những điều tốt đẹp hơn. Vì thế, đừng ngại ngần giúp đỡ những người xung quanh bằng tất cả sự chân thành.
Bài nghị luận mẫu 6
Trong xã hội rộng lớn này, sẽ chẳng ai có thể sống tốt nếu thiếu đi tình người. Bởi vậy, tinh thần tương thân tương ái – biết yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ nhau – luôn là điều cần được giữ gìn và phát huy mỗi ngày.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng ít nhất một lần nhận được sự giúp đỡ từ người khác, dù quen hay lạ. Đó có thể là người bạn cho mượn sách khi ta cần, hay người đi đường giúp ta vá chiếc xe thủng lốp. Những việc nhỏ bé ấy, nghe tưởng chừng đơn giản nhưng lại là sự phản chiếu rõ nét nhất của tinh thần tương thân tương ái.
Nếu ai cũng chỉ sống ích kỷ cho riêng mình, chắc chắn xã hội sẽ trở nên lạnh lẽo, vô cảm. Ngược lại, khi mỗi người biết cho đi, biết đồng cảm với những số phận kém may mắn, thì mọi khó khăn sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Vì thế, mỗi người hãy bắt đầu ngay từ những hành động nhỏ: một lời hỏi han, một cái nắm tay, hay một chút thời gian tình nguyện. Thế giới này cần lắm những trái tim biết thương yêu.
Bài nghị luận mẫu 7
Ông cha ta có câu “Lá lành đùm lá rách”, đó không chỉ là lời khuyên mà còn là bài học quý báu về lòng nhân ái – tinh thần tương thân tương ái trong cuộc sống. Đây là đức tính cao đẹp, là nét đẹp truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta.
Tương thân tương ái nghĩa là biết đồng cảm, giúp đỡ, yêu thương những người gặp khó khăn. Người giàu giúp người nghèo, người khỏe giúp người yếu, người có điều kiện hơn giúp đỡ người kém may mắn hơn. Chính sự tương trợ đó đã giúp biết bao mảnh đời vượt qua nghịch cảnh, cùng nhau hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ngày nay, tinh thần tương thân tương ái được thể hiện rõ ràng trong những hoạt động như từ thiện, giúp đỡ đồng bào vùng thiên tai, hỗ trợ trẻ em nghèo đến trường, chăm sóc người già neo đơn… Đó là những hành động tuy nhỏ bé nhưng góp phần xây dựng một xã hội ấm áp tình người.
Bởi vậy, đừng ngại mở lòng mình ra, hãy sẵn sàng giúp đỡ khi ai đó cần. Bởi yêu thương là thứ kỳ diệu, cho đi bao nhiêu lại nhận về bấy nhiêu niềm vui.
Bài nghị luận mẫu 8
Một xã hội muốn phát triển bền vững không thể thiếu tinh thần tương thân tương ái – sự yêu thương và sẻ chia giữa con người với con người. Đây chính là nét đẹp văn hóa lâu đời, là "chìa khóa vàng" gắn kết mọi người lại gần nhau hơn.
Ai trong chúng ta cũng đều có lúc khó khăn. Nếu mỗi người biết dang tay giúp đỡ người khác, chắc chắn chính mình rồi cũng sẽ nhận lại những điều tốt đẹp khi cần.
Từ những việc nhỏ như giúp bạn bè học tập, hỗ trợ người già qua đường, đến những việc lớn như cứu trợ vùng thiên tai, tất cả đều là những hành động quý giá thể hiện tinh thần tương thân tương ái.
Sống biết yêu thương không khiến ta nghèo đi, mà ngược lại, giúp tâm hồn ta trở nên giàu có hơn. Nếu mỗi người đều sống với lòng nhân ái, xã hội sẽ trở thành một đại gia đình tràn đầy yêu thương.
Vậy nên, đừng bao giờ thờ ơ trước khó khăn của người khác. Hãy cho đi bằng cả tấm lòng, vì biết đâu, vào một ngày không xa, bạn cũng sẽ cần một bàn tay chìa ra giữa lúc mình mỏi mệt.
Học sinh trung học phổ thông cần đáp ứng yêu cầu gì khi hoàn thành chương trình giáo dục môn ngữ văn?
Theo tiểu mục 2 Mục IV Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT đặt ra yêu cầu cần đạt ở cấp trung học phổ thông như sau:
- Năng lực ngôn ngữ:
+ Biết vận dụng kiến thức tiếng Việt và kiến thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, tư tưởng, triết học và quan niệm thẩm mĩ của các thời kì để hiểu các văn bản khó hơn (thể hiện qua dung lượng, độ phức tạp và yêu cầu đọc hiểu).
+ Biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản, nhất là những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu văn bản. Học sinh có cách nhìn, cách nghĩ về con người và cuộc sống theo cảm quan riêng; thấy được vai trò và tác dụng của việc đọc đối với bản thân.
+ Từ lớp 10 đến lớp 12: viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; viết đúng quy trình, có kết hợp các phương thức biểu đạt, kiểu lập luận và yếu tố nghệ thuật; có chủ kiến về một vấn đề xã hội.
+ Viết được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp; văn bản nghị luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm văn học; bàn về những vấn đề phù hợp với đối tượng gần đến tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu lập luận tương đối phức tạp, bằng chứng cần phải tìm kiếm từ nhiều nguồn; văn bản thuyết minh viết về những vấn đề có tính khoa học dưới hình thức một báo cáo nghiên cứu đúng quy ước; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn.
+ Bài viết thể hiện được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với những vấn đề đặt ra trong văn bản; thể hiện được một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá tính.
+ Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận.
- Năng lực văn học
+ Phân tích và đánh giá văn bản văn học dựa trên những hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn học.
Nhận biết được đặc trưng của hình tượng văn học và một số điểm khác biệt giữa hình tượng văn học với các loại hình tượng nghệ thuật khác (hội hoạ, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc);
Phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng và cách thể hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn học;
Nhận biết và phân tích được đặc điểm của ngôn ngữ văn học, câu chuyện, cốt truyện và cách kể chuyện;
Nhận biết và phân tích được một số đặc điểm phong cách nghệ thuật trong văn học dân gian, trung đại và hiện đại; phong cách nghệ thuật của một số tác giả, tác phẩm lớn.
+ Nêu được những nét tổng quát về lịch sử văn học dân tộc (quá trình phát triển, các đề tài và chủ đề lớn, các tác giả, tác phẩm lớn; một số giá trị nội dung và hình thức của văn học dân tộc) và vận dụng vào việc đọc tác phẩm văn học.
+ Tạo lập được một số kiểu văn bản văn học thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ.