Thông tư 477-TCCP-1981 hướng dẫn Quyết định 112-HĐBT-1981 quy định về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã do Ban Tổ chức của Chính phủ ban hành

Số hiệu 477-TCCP
Ngày ban hành 10/12/1981
Ngày có hiệu lực 25/12/1981
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Ban Tổ chức của Chính phủ
Người ký Vũ Trọng Kiên
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BAN TỔ CHỨC CỦA CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 477-TCCP

Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1981

 

THÔNG TƯ

CỦA TRƯỞNG BAN BAN TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ SỐ 477-TCCP NGÀY 10 THÁNG 12 NĂM 1981 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH SỐ 112 -HĐBT NGÀY 15-10-1981 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG QUY ĐỊNH VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

Ngày 15 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 112-HĐBT quy định về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã.

Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản về kiện toàn chính quyền cấp xã, song việc thực hiện chưa thống nhất. Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng lần này là cơ sở pháp lý đối với việc củng cố, kiện toàn chính quyền cấp xã trong phạm vi cả nước.

Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương căn cứ vào quy định của Đảng và Nhà nước mà chi tiết, cụ thể việc phân công phân nhiệm, lề lối làm việc và mối quan hệ công tác của Uỷ ban nhân dân, các ban chuyên môn ở xã cho sát, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương.

Để giúp các địa phương và các ngành thực hiện quyết định trên, Ban tổ chức của Chính phủ hướng dẫn và nhấn mạnh một số điểm sau đây.

I. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

Uỷ ban nhân dân xã là cấp chính quyền cơ sở, đại diện cho Nhà nước ở nông thôn, quản lý mọi mặt công tác Nhà nước ở xã là sợi dây nối liền nhân dân với Đảng và Nhà nước, là cấp tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên xuống tận nhân dân, cho nên sự hoạt động của chính quyền xã phải trực tiếp và sát dân.

Trong hoạt động của mình, chính quyền xã cần nắm vững hai chức năng chủ yếu (điều 121 của Hiến pháp):

- Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã có nhiệm vụ:

a) Triệu tập Hội đồng nhân dân xã đúng như luật định, chuẩn bị tốt báo cáo, đề án công tác và các vấn đề cần đưa ra hội nghị, chuẩn bị tốt nội dung và các điều kiện cần thiết phục vụ hội nghị.

b) Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã. Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân;

c) Tạo điều kiện thuận lợi để các đại biểu Hội đồng nhân dân xã hoạt động.

- Là cơ quan quản lý Nhà nước ở xã:

Quyết định số 112-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng đã quy định 12 nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền cấp xã. Uỷ ban nhân dân xã phải chấp hành pháp luật, chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các cơ quan Nhà nước cấp trên. Quản lý mọi mặt công tác Nhà nước ở xã về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo thỉnh thị Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã và chịu trách nhiệm trước cấp trên về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Trong khi thực hiện, chính quyền xã cần chú ý một số điểm sau:

a) Về việc xây dựng và tham gia xây dựng kế hoạch:

Chính quyền xã phải nắm kế hoạch phát triển sản xuất, sự nghiệp văn hoá, giáo dục y tế, xã hội, đời sống và mọi mặt công tác khác của xã một cách chính xác, đầy đủ, khả năng vật chất, kỹ thuật hiện tại và khả năng tiềm tàng của xã để nghiên cứu xây dựng kế hoạch, tham gia ý kiến với cấp trên trong việc xác định chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã, hợp tác xã.

b) Về quản lý dân:

Chính quyền xã phải quản lý và nắm được đầy đủ tình hình nhân khẩu của xã, tình hình phát triển dân số. Tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của dân, quản lý tình hình làm ăn, sinh hoạt, đời sống của họ, có kế hoạch phân loại để quản lý. Xây dựng phong trào bảo mật phòng gian, quản lý công tác an ninh chính trị, trật tự xã hội, chống chiến tranh tâm lý của địch... bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân.

c. Về quản lý đất đai:

Chính quyền xã phải nắm đầy đủ, chính xác tình hình ruộng đất, rừng, bãi biển và các tài nguyên thiên nhiên khác của xã để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Không để tình trạng sử dụng lấn chiếm ruộng đất của tập thể, của Nhà nước. Thu hồi những ruộng đất bị lấn chiếm để giao lại cho hợp tác xã, hoặc để làm nguồn thu cho ngân sách xã.

d) Về quản lý ngân sách xã:

Chính quyền xã thống nhất quản lý các nguồn thu chi thuộc ngân sách xã. Phải xây dựng ngân sách xã, chấp hành kế hoạch và quản lý ngân sách xã theo hướng tận dụng các nguồn thu đúng chính sách để tăng cho ngân sách xã. Quản lý tài sản công cộng của xã gồm đất đai, đầm, hồ ao, cây lưu niên, nhà cửa... theo Điều 5 của điều lệ ngân sách xã do Bộ Tài chính ban hành. Xây dựng quan điểm tự lực cánh sinh, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, làm tốt xây dựng và quản lý ngân sách xã để tự giải quyết dần những yêu cầu về phát triển kinh tế, văn hoá, trả trợ cấp yêu cầu về phát triển kinh tế, văn hoá, trả trợ cấp cho cán bộ xã, tiến tới bớt dần phần trợ cấp cho cán bộ xã, tiến tới bớt dần phần trợ cấp do ngân sách Nhà nước đài thọ (Bộ Tài chính sẽ có hướng dẫn cụ thể).

II. VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC

a) Về tổ chức bộ máy:

Uỷ ban nhân dân xã có các ban chuyên môn giúp việc được sắp xếp thống nhất trong cả nước như đã quy định tại Điều 7 của Quyết định số 112-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Khi thực hiện cần tránh xu hướng tuỳ tiện, cần quán triệt phương châm là tổ chức bộ máy phải gọn nhẹ, có hiệu lực thực sự. Vì vậy, phải kiện toàn cán bộ cho các ban chuyên môn có đủ sức làm việc gồm những người có trình độ chính trị, có năng lực chuyên môn thích hợp, bố trí kiêm chức, kiêm việc để mọi công tác ở xã đều có người phụ trách phù hợp với yêu cầu. Đồng thời tổ chức để quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và quản lý công việc ở xã như tổ thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, hội mẹ chiến sĩ, tổ quản lý thị trường, tổ kẻ vẽ thông tin...

Các ban chuyên môn ở xã chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban nhân dân xã, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan tương ứng cấp trên.

[...]