BỘ
TÀI CHÍNH-UỶ BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT NHÀ NƯỚC
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
33/TC-UBKHKTNN
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 10 năm 1975
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA BỘ CỦA BỘ TÀI CHÍNH - UỶ BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬTNHÀ NƯỚC
SỐ 33-TC/UBKHKTNN NGÀY 21 THÁNG 10 NĂM 1975 HƯỚNG DẪN VIỆC QUẢN LÝ CHI TIÊU VỀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KỸ THUẬT
Trong thời gian qua, công tác
nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến mới; số đề tài nghiên cứu
khoa học kỹ thuật phát triển, kinh phí đầu tư vào sự nghiệp khoa học kỹ thuật
ngày càng tăng, việc quản lý chi về việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã bước đầu
đi vào nền nếp.
Để góp phần cải tiến một bước việc
quản lý kế hoạch nghiên cứu khoa học kỹ thuật nhằm khuyến khích đẩy mạnh nghiên
cứu khoa học kỹ thuật, đảm bảo cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật đạt hiệu
quả cao, hoàn thành đúng kế hoạch, phục vụ thiết thực nhu cầu ngày càng phát
triển của Nhà nước, Bộ Tài chính và Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước ra
Thông tư này hướng dẫn việc quản lý chi tiêu về nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Phần 1:
NGUỒN VỐN VÀ KINH PHÍ CẤP
CHO VIỆC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KỸ THUẬT
1. Đối với các cơ quan và các
đơn vị cơ sở mà nội dung hoạt động chủ yếu là nghiên cứu khoa học kỹ thuật ngân
sách Nhà nước cấp kinh phí chi mọi mặt hoạt động của các đơn vị đó. Các đơn vị
nói trên sử dụng số kinh phí sự nghiệp được cấp để bảo đảm hoàn thành theo kế
hoạch quy định, các đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật, không kể các đề tài đó
thuộc loại do cấp nào duyệt. Các khoản chi cấp cho các đơn vị này được hạch
toán loại 2 khoản 37, theo mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành.
2. Đối với các cơ quan quản lý
Nhà nước có làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, kinh phí cho việc nghiên
cứu khoa học kỹ thuật do ngân sách Nhà nước cấp dưới hai hình thức:
- Cấp chung trong kinh phí sự
nghiệp của đơn vị, nếu là chi cho các đề tài nghiên cứu khoa học kỹ thuật thuộc
quyền quản lý của cấp cơ sở; các khoản chi về các đề tài nghiên cứu khoa học kỹ
thuật này được hạch toán vào một tiết trong mục 14 (theo mục lục ngân sách Nhà
nước hiện hành) của dự toán kinh phí sự nghiệp.
- Kinh phí dành cho các đề tài
nghiên cứu thuộc loại do cấp Nhà nước và do cấp Bộ quản lý thì do ngân sách Nhà
nước cấp riêng theo thể thức quy định tại phần II của Thông tư này.
3. Đối với các xí nghiệp, nguồn
vốn dành cho công tác nghiên cứu các đề tài khoa học và kỹ thuật thuộc quyền quản
lý của cấp cơ sở, được trích từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất theo quy định
tại Nghị định số 236-CP ngày 10-12-1970, Thông tư hướng dẫn số 88-CP ngày
2-3-1972 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 14-TC/CNXD ngày 1-8-1974 của Bộ
Tài chính.
Đối với các xí nghiệp chưa thi
hành chế độ 3 quỹ thì nguồn vốn cho công tác nghiên cứu các đề tài khoa học và
kỹ thuật thuộc cấp cơ sở được dự trù theo các quy định áp dụng đối với kinh phí
chuyên dùng. Nếu là các đề tài thuộc loại do cấp bộ và cấp Nhà nước quản lý thì
do ngân sách Nhà nước cấp riêng theo thể thức quy định tại phần II của Thông tư
này.
Phần 2:
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VỐN VÀ
KINH PHÍNGHIÊN CỨU KHOA HỌC KỸ THUẬT
I. NGUYÊN TẮC
QUẢN LÝ
1. Kinh phí ngân sách Nhà nước -
cũng như vốn trích quỹ khuyến khích phát triển sản xuất - dành cho việc nghiên
cứu khoa học và kỹ thuật chỉ được cấp và sử dụng cho những đề tài được ghi vào
kế hoạch công tác của đơn vị sau khi được cơ quan có thẩm quyền duyệt theo quy
định dưới đây:
a. Mỗi đề tài phải có một đề
cương nghiên cứu riêng. Đề cương phải ghi rõ nội dung nghiên cứu, thời hạn hoàn
thành và dự trù chi tiêu cho việc nghiên cứu.
Các đề tài do cấp Nhà nước quản
lý phải được Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước duyệt đề cương nghiên cứu (nội
dung, thời hạn, dự trù chi tiêu) và trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn.
Các đề tài do cấp Bộ quản lý phải
được bộ chủ quản duyệt (nội dung, thời hạn và dự trù chi tiêu) có sự tham gia ý
kiến của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước.
Các đề tài do cấp cơ sở quản lý
phải được bộ chủ quản duyệt đề cương nghiên cứu (nội dung, thời hạn và dự trù
chi tiêu); danh mục và dự toán tổng hợp chi tiêu về các đề cương này, sau khi
được bộ chủ quản duyệt, phải đăng ký với Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật.
2. Kinh phí hoặc vốn cấp cho việc
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật phải được sử dụng đúng mục đích; không được
dùng vào bất cứ việc gì khác.
Kinh phí và vốn được cấp chỉ được
dùng vào những đề tài đã được cấp có thẩm quyền duyệt theo đúng chế độ quy định
và ghi vào kế hoạch công tác của đơn vị, không được dùng vào việc nghiên cứu những
đề tài ngoài kế hoạch đã được duyệt.
Kinh phí cấp cho đề tài thuộc loại
do cấp nào quản lý chỉ được dùng cho đề tài loại đó; không được lấy kinh phí cấp
cho đề tài do cấp Nhà nước quản lý dùng vào các đề tài do cấp bộ và cấp cơ sở
quản lý và cũng không được làm ngược lại.
Đơn vị sử dụng kinh phí được quyền
điều hoà việc sử dụng kinh phí được cấp trong phạm vi các đề tài thuộc cùng một
cấp quản lý và trong phạm vi số kinh phí được cấp, sau khi đã được cơ quan quản
lý cấp trên đồng ý.
Việc quản lý các khoản chi về
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật phải bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ
tiêu chuẩn chi tiêu của Nhà nước, tiết kiệm vật tư, lao động, tiền vốn, hoàn
thành công tác nghiên cứu theo kế hoạch đã được duyệt với hiệu quả cao nhất, chấp
hành đúng chế độ dự toán, quyết toán, báo cáo kế toán theo quy định của Nhà nước.
II. CHẾ ĐỘ QUẢN
LÝ CHI TIÊU VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
A. Đối với các
đơn vị chuyên trách nghiên cứu khoa học và kỹ thuật được cấp kinh phí sự nghiệp
nghiên cứu khoa học theo loại 2 - khoản 37 của mục lục ngân sách.
1. Lập dự toán chi cả năm
a. Dự toán chi cả năm của các
đơn vị nghiên cứu khoa học kỹ thuật phải:
- Phản ánh đầy đủ và chính xác
các khoản chi tiêu cho hoạt động của đơn vị về mọi mặt, đặc biệt là các khoản
chi trực tiếp về nghiên cứu khoa học kỹ thuật (loại 2 - khoản 37 - mục 14);
- Bảo đảm chấp hành đầy đủ các
chế độ tiêu chuẩn chi tiêu của Nhà nước theo chế độ quy định.
b. Về nội dung dự toán, cần chú
ý hai khoản chi dưới đây:
Chi tiêu về lương bổng và phụ cấp
(mục I và mục II): nếu là đơn vị mà chỉ tiêu biên chế được duyệt hàng năm, thì
tiền lương tính theo số lao động có mặt cuối năm trước và không được vượt quá
chỉ tiêu được duyệt cho năm kế hoạch.
Khoản chi trực tiếp cho việc
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật (mục 14) chỉ được hạch toán các khoản chi sau
đây:
- Chi về trả lương cho lực lượng
lao động phải thuê mướn bên ngoài tham gia vào công việc nghiên cứu các đề tài
trong kế hoạch;
- Chi về nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu, hoá chất, giống cây trồng, giống gia súc, súc vật thí nghiệm, v.v. trực
tiếp phục vụ cho việc nghiên cứu các đề tài theo kế hoạch;
- Chi về mua sắm một số ít máy
móc, thiết bị trực tiếp phục vụ cho các đề tài nghiên cứu theo kế hoạch; cấm
không được sử dụng kinh phí này để bổ sung vốn xây dựng cơ bản trang bị cho đơn
vị ngoài kế hoạch. Cơ quan duyệt thiết bị đề tài và dự toán cần xem xét kỹ trường
hợp yêu cầu mua sắm nhiều máy móc thiết bị; nói chung, đối với đơn vị không sẵn
có cơ sở vật chất kỹ thuật thích hợp thì không nên giao nghiên cứu những đề tài
nghiên cứu cần dùng nhiều thiết bị, trừ trường hợp đặc biệt.
c. Khoản chi trực tiếp cho việc
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật (mục 14) phải thuyết minh rõ từng khoản chi cho
từng đề tài và phân biệt theo cấp quản lý đề tài.
d. Dự toán chi cả năm phải chia
ra từng quý tuỳ theo tiến độ kế hoạch của công tác nghiên cứu; kèm theo dự toán
tổng hợp này phải có các bản đề cương nghiên cứu cho từng đề tài; mỗi đề tài có
một bản đề cương thuyết minh rõ nội dung nghiên cứu, thời hạn và từng khoản chi
tiêu trực tiếp cho đề tài đó.
Dự toán lập theo mẫu biểu do Bộ
Tài chính quy định và theo thời hạn lập dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm
theo chế độ quy định. Nếu là những đề tài mà yêu cầu nghiên cứu phải kéo dài
nhiều năm thì phải nêu rõ: tổng số kinh phí cần thiết, số kinh phí cần cho năm
kế hoạch. Nếu là những đề tài đang nghiên cứu dở dang thì phải nêu rõ: tổng số
kinh phí được duyệt, số kinh phí đã quyết toán các năm trước, số kinh phí cần
cho năm kế hoạch.
e. Khi đưa ra Hội đồng khoa học
kỹ thuật của cơ quan thông qua nội dung các đề tài nghiên cứu, thủ trưởng đơn vị
dự toán yêu cầu Hội đồng thông qua các khoản chi trực tiếp cho từng đề tài.
g. Dự toán chi cả năm của đơn vị
cấp II phải gửi đến đơn vị cấp dự toán cấp I kèm theo các bản đề cương của từng
đề tài.
Đơn vị dự toán cấp I phải:
- Xét duyệt các đề tài thuộc loại
do cấp bộ và cấp cơ sở quản lý, cả về mặt nội dung lẫn dự toán theo từng đề
tài, rồi tổng hợp lại thành hai danh mục: một danh mục tổng hợp các đề tài do cấp
cơ sở quản lý gửi đến Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước để đăng ký, một danh
mục tổng hợp kèm theo các đề cương về đề tài do cấp bộ quản lý gửi đến Uỷ ban
Khoa học và kỹ thuật Nhà nước để tham gia ý kiến. Những tài liệu trên đây cùng
gửi đến Bộ Tài chính, mỗi loại một bản.
- Xem xét các đề tài thuộc loại
do cấp Nhà nước quản lý, cho ý kiến về từng đề tài, cả về mặt nội dung lẫn từng
khoản chi trong dự toán, và gửi danh mục tổng hợp kèm theo các đề tài và các đề
cương nghiên cứu đến Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước và Bộ Tài chính, mỗi
nơi một bản.
2. Xét duyệt dự toán chi cả năm
Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà
nước:
- Xem xét danh mục tổng hợp các
đề tài do các cơ sở quản lý và từng đề tài do cấp bộ quản lý cả về mặt nội dung
đề tài, cả về mặt dự toán, và góp ý kiến với cơ quan chủ quản và thông báo kết
quả cho cơ quan tài chính biết;
- Phối hợp với Bộ Tài chính, xem
xét từng đề tài thuộc loại cấp Nhà nước quản lý về mặt nội dung cần tiến hành
trong năm kế hoạch cũng như về mặt dự toán, xem xét nội dung từng khoản chi
tiêu xem có phù hợp với yêu cầu hay không, sau đó tổng hợp thành bản danh mục
trình Hội đồng Chính phủ xét duyệt.
Trên cơ sở các ý kiến tham gia của
Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Bộ Tài chính xem xét dự toán tổng hợp chi
loại 2 khoản 37 của cơ quan chủ quản, tổng hợp vào dự toán ngân sách Nhà nước
hàng năm trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn theo chế độ quy định.
3. Thông báo mức kinh phí dự
toán
Sau khi danh mục các đề tài do cấp
Nhà nước quản lý được Hội đồng Chính phủ xét duyệt, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật
Nhà nước lập bảng thông báo cho từng cơ quan chủ quản. Các đề tài thuộc cấp Nhà
nước quản lý đã được Hội đồng Chính phủ duyệt, đồng gửi cho cơ quan tài chính
cùng với danh mục các đề tài do cấp Bộ và cấp cơ sở quản lý đã được thông qua.
Bản thông báo này, ngoài nội dung đề tài được thông qua, còn phải ghi rõ dự
toán chi đã được duyệt cho từng đề tài.
Bộ Tài chính căn cứ vào dự toán
ngân sách Nhà nước được phê chuẩn và thông báo của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật
Nhà nước về kết quả xét duyệt từng đề tài, lập bảng thông báo mức dự toán kinh
phí sự nghiệp nghiên cứu khoa học kỹ thuật (loại 2 - khoản 37) cho từng cơ quan
chủ quản.
Cơ quan chủ quản thông báo mức
kinh phí sự nghiệp nghiên cứu khoa học và kỹ thuật (loại 2 - khoản 37) được duyệt
cho từng đơn vị trực thuộc.
4. Việc cấp phát kinh phí áp dụng
theo chế độ cấp phát hạn mức hiện hành
Hàng quý, cơ quan tài chính tổ
chức cấp phát kinh phí căn cứ vào kế hoạch chi phí tổng hợp của cơ quan chủ quản
để cơ quan này phân phối cho các đơn vị trực thuộc, trong phạm vi tổng số kinh
phí được duyệt cả năm.
Cơ quan tài chính chỉ cấp phát
kinh phí cho quý sau, sau khi đã nhận được báo cáo tình hình ước thực hiện kế
hoạch chi trong quý trước (có thuyết minh cụ thể) và báo cáo quyết toán chi của
quý trước nữa theo đúng chế độ quy định.
5. Việc quản lý chi tiêu về
nghiên cứu khoa học ở đơn vị cơ sở
Việc quản lý chi tiêu phải chặt
chẽ, tôn trọng các chế độ tiêu chuẩn đã quy định, thúc đẩy tiết kiệm vật tư,
lao động, tiền vốn, thực hiện đúng tiến độ của kế hoạch nghiên cứu cho từng đề
tài đã được duyệt.
Nếu cần xin thêm kinh phí, xin
điều chỉnh việc sử dụng kinh phí: lấy kinh phí cấp cho một đề tài dùng cho một
đề tài khác cùng do một cấp quản lý (Nhà nước, bộ hoặc cơ sở), đơn vị chủ quản
phải báo cáo lên cấp trên kèm theo thuyết minh cụ thể về lý do xin điều chỉnh để
cấp trên quyết định.
Trong trường hợp có đề tài
nghiên cứu tiến hành không thuận lợi, không có triển vọng đem lại kết quả, thì
đơn vị chủ quản cần kịp thời lấy ý kiến của Hội đồng khoa học; đình chỉ việc
nghiên cứu, nắm lại tình hình công việc nghiên cứu đã làm, số kinh phí đã sử dụng
(chủ yếu là chi của mục 14) và báo cáo lên đơn vị quản lý cấp trên để báo cáo với
cơ quan tài chính đình chỉ cấp phát kinh phí và Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà
nước biết để theo dõi.
6. Báo cáo quyết toán
1. Phải lập quyết toán chi tiêu
hàng quý và hàng năm theo đúng chế độ. Báo cáo quyết toán cần kèm theo một bản
thuyết minh nêu rõ:
- Kết quả đã đạt được về nghiên
cứu đề tài (trích ý kiến của Hội đồng khoa học đánh giá kết quả nghiên cứu đề
tài);
- Hiệu quả của việc nghiên cứu;
- Chi phí cho đề tài nghiên cứu.
Báo cáo quyết toán phải lập theo
đúng biểu mẫu, đúng thời hạn quy định trong chế độ kế toán đơn vị dự toán:
Thông tư số 3-TC/TDT ngày 30-3-1972, mẫu số 9-BC (báo cáo quyết toán quý) và mẫu
số 32-BC (báo cáo quyết toán năm).
2. Báo cáo quyết toán của đơn vị
cơ sở phải gửi lên cơ quan chủ quản cấp trên. Cơ quan quản lý cấp trên (đơn vị
dự toán cấp I) phải báo cáo quyết toán tổng hợp với cơ quan tài chính cùng cấp
(đồng thời gửi 1 bản sao cho Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước để biết).
7. Kiểm kê tài sản và thanh toán
cuối năm
Cuối năm, đơn vị cơ sở phải tổ
chức kiểm kê tài sản theo chế độ quy định.
Tài sản cố định, máy móc, thiết
bị mua sắm trong năm kế hoạch bằng kinh phí nghiên cứu khoa học (mục 14) phải kiểm
kê, xác định hiện trạng, giá trị còn lại và chuyển thành tài sản cố định của
đơn vị và quản lý theo chế độ. Loại tài sản không cần dùng đến nữa thì lập báo
cáo gửi cơ quan tài chính, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước để điều chỉnh
cho đơn vị khác.
Nguyên vật liệu tồn kho cuối
năm, nếu là loại cần tiếp tục được sử dụng cho năm sau thì chuyển sang năm sau;
loại không cần đến nữa thì báo cho cơ quan tài chính để điều chỉnh cho đơn vị
khác theo chế độ.
Cuối năm, chi không hết số kinh
phí đã được cấp trong năm kế hoạch thì phải nộp lại số còn thừa cho ngân sách;
nếu là tiền mặt còn thừa không dùng đến thì ghi nộp khôi phục hạn mức để giảm cấp
phát. Nếu là tiền tạm ứng thuộc kinh phí của đề tài đang nghiên cứu dở dang,
năm sau cần tiếp tục sử dụng để hoàn thành đề tài thì làm thủ tục chuyển sang
năm sau sử dụng. Các khoản tạm ứng cho các đề tài đã hoàn thành phải thanh toán
kịp thời, nếu còn thừa tiền, phải nộp lại ngân sách (nộp khôi phục hạn mức).
8. Thu về bán sản phẩm nghiên cứu,
chế thử hoặc súc vật thí nghiệm
Dự toán đầu năm phải dự kiến số
thu về bán sản phẩm nghiên cứu, sản phẩm chế thử, súc vật thí nghiệm cho từng đề
tài.
Trong quá trình công tác, thu được
đến đâu nộp ngay vào ngân sách đến đó (thu giảm chi); đơn vị không được giữ lại
để chi tiêu.
B. Đối với các
cơ quan quản lý Nhà nước có làm công tác nghiên cứu khoa học
1. Các đơn vị cơ sở thuộc các cơ
quan quản lý Nhà nước có làm công tác nghiên cứu khoa học được sử dụng 2 nguồn
vốn để làm công tác này:
- Trích kinh phí sự nghiệp (mục
14) theo dự toán được duyệt để giải đáp các nhu cầu chi về những đề tài do cấp
cơ sở quản lý; kinh phí về nghiên cứu khoa học này được quyết toán chung với
kinh phí sự nghiệp cấp cho đơn vị.
- Kinh phí cấp riêng cho các đề
tài thuộc loại do Nhà nước và do cấp bộ quản lý: kinh phí này do cơ quan chủ quản
(đơn vị quản lý cấp trên) phân phối theo kế hoạch của cơ quan tài chính căn cứ
vào đề nghị của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước. Kinh phí này nằm ngoài
kinh phí sự nghiệp của đơn vị dự toán cơ sở; đơn vị cơ sở phải quyết toán riêng
về số kinh phí này với đơn vị quản lý cấp trên để đơn vị này quyết toán tổng hợp
với cơ quan tài chính.
2. Các cơ quan quản lý Nhà nước
lập dự toán kinh phí sự nghiệp, phải dự trù kinh phí về nghiên cứu khoa học kỹ
thuật cho các đề tài thuộc cấp cơ sở quản lý. Dự toán kinh phí này phải kèm
theo bản thuyết minh về từng đề tài (về nội dung và dự trù chi tiêu) theo đúng
quy định ở phần II, điểm 2 tại Thông tư này.
Đối với các đề tài thuộc cấp Bộ
và cấp Nhà nước quản lý, đơn vị phải lập bản thuyết minh riêng cho từng đề tài;
trong bản thuyết minh phải ghi rõ nội dung đề tài nghiên cứu, tổ chức thực hiện
và dự trù chi tiêu theo quy định tại phần II, điểm 2 Thông tư này.
Dự toán kinh phí sự nghiệp và bản
danh mục đề tài nghiên cứu cấp bộ và cấp Nhà nước quản lý kèm theo các bản thuyết
minh phải gửi đến đơn vị chủ quản cấp trên theo thời hạn quy định.
3. Về quản lý sử dụng kinh phí,
cơ quan quản lý Nhà nước phải triệt để tôn trọng các nguyên tắc không được lấy
kinh phí cấp cho các đề tài nghiên cứu thuộc cấp bộ và cấp Nhà nước quản lý sử
dụng cho các đề tài thuộc cấp cơ sở quản lý; kinh phí cấp cho nghiên cứu khoa học
phải sử dụng đúng mục đích, không được dùng vào việc khác như đã quy định tại
điểm 3, mục I, phần II Thông tư này.
C. Đối với các
xí nghiệp sử dụng kinh phí trích quỹ khuyến khích phát triển sản xuất để nghiên
cứu khoa học
Các xí nghiệp phải tuân theo các
quy định trong Thông tư này trong việc quản lý kinh phí nghiên cứu khoa học:
- Phải lập kế hoạch nghiên cứu
khoa học của đơn vị, ghi rõ từng đề tài, có bản thuyết minh cho từng đề tài, được
cơ quan có thẩm quyền duyệt như đã quy định tại phần II Thông tư này (các đề
tài cấp Nhà nước quản lý phải được Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước duyệt);
- Kinh phí trích quỹ phát triển
sản xuất được dùng vào việc nghiên cứu các đề tài do cấp cơ sở quản lý;
- Đối với các đề tài do cấp Nhà
nước và cấp bộ quản lý, phải lập dự trù riêng kèm theo thuyết minh, báo cáo với
cơ quan quản lý chủ quản xét cấp kinh phí riêng và quyết toán riêng theo chế độ
như đã quy định tại phần II Thông tư này.
Nếu có nhu cầu về bán sản phẩm
chế thử thì tiền thu được sẽ nhập vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của
xí nghiệp.
D. Trường hợp
ký hợp đồng nghiên cứu khoa học kỹ thuật với đơn vị bên ngoài
Không được dùng vốn do ngân sách
Nhà nước cấp hoặc trích quỹ khuyến khích phát triển sản xuất (tiền, vật tư,
nguyên vật liệu) để chi về công tác nghiên cứu các đề tài theo hợp đồng ký kết
với bên ngoài.
Cần mở sổ sách theo dõi riêng,
ghi rành mạch từng khoản thu chi.
Sau khi hoàn thành việc nghiên cứu,
nếu có số thu được do chênh lệch giữa thu và chi thì xử lý theo quy định tại
Thông tư số 1-TT/LB ngày 2-4-1975 hướng dẫn việc quản lý tài chính đối với lao
động sản xuất trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.
Thông tư này thi hành kể từ ngày
1 tháng 10 năm 1975 cho tất cả các đơn vị có làm công tác nghiên cứu khoa học
thuộc quyền quản lý của các ngành ở Trung ương cũng như ở địa phương.
Các quy định trước đây trái với
Thông tư này đều bãi bỏ.
Lê
Khắc
(Đã
ký)
|
Trịnh
Văn Bính
(Đã
ký)
|