TỔNG
CỤC BƯU ĐIỆN-TỔNG CỤC HẢI QUAN
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
13-TT/LB/BĐ-HQ
|
Hà
Nội , ngày 09 tháng 1 năm 1991
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI VÀ BƯU ĐIỆN - TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ
13-TT/LB/BĐ-HQ NGÀY 9-1-1991 QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM CỦA HAI NGÀNH TRONG VIỆC LÀM
THỦ TỤC XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU BƯU PHẨM, BƯU KIỆN
Căn cứ điều lệ bưu chính và
viễn thông ban hành kèm theo Nghị định số 121-HĐBT ngày 15-8-1987 của Hội đồng
Bộ trưởng và Pháp lệnh Hải quan ngày 20-2-1990, Liên bộ Giao thông vận tải và
Bưu điện - Tổng cục Hải quan thống nhất quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa
hai ngành trong việc làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu bưu phẩm, bưu kiện như
sau:
I- QUY ĐỊNH
CHUNG
1- Bộ Giao thông vận tải và Bưu
điện (Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam) có nhiệm vụ bảo đảm nhận,
chuyển, phát an toàn, nhanh chóng bưu phẩm, bưu kiện xuất khẩu, nhập khẩu theo
đúng quy định của Điều lệ Bưu chính và Viễn thông.
2- Tổng cục Hải quan có nhiệm vụ
bảo đảm việc kiểm tra nhanh chóng các bưu phẩm, bưu kiện đựng vật phẩm, hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi là bưu phẩm, bưu kiện) theo đúng quy định
của Pháp lênh Hải quan.
3- Tổng cục Hải quan và Bộ Giao
thông vận tải và Bưu điện tuân thủ các quy định của Nhà nước và của hai ngành về
xuất khẩu, nhập khẩu vật phẩm, hàng hoá gửi trong bưu phẩm, bưu kiện.
Hàng xuất khẩu, nhập khẩu phải
là hàng:
- Không thuộc danh mục cấm xuất
khẩu, nhập khẩu của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ;
- Không thuộc danh mục cấm nhập
khẩu của nước nhận ;
Việc gửi hàng đó không trái với
công ước của liên minh bưu chính thế giới (UPU) và pháp luật Bưu điện và Hải
quan Việt Nam.
4- Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện) bàn với Cục Giám quản (Tổng cục Hải
quan) việc mở bưu cục ngoại dịch (trong pháp lệnh Hải quan gọi là Bưu điện quốc
tế) và Bưu cục kiểm quan ở nơi thấy cần thiết.
Bưu cục ngoại dịch là bưu cục
làm nhiệm vụ trao đổi trực tiếp chuyển thư với Bưu cục ngoại dịch của nước
khác, đồng thời là nơi làm thủ tục hải quan đối với bưu phẩm, bưu kiện xuất khẩu,
nhập khẩu.
Bưu cục kiểm quan là bưu cục chỉ
làm thủ tục hải quan đối với bưu phẩm, bưu kiện xuất, nhập khẩu, không làm nhiệm
vụ trao đổi chuyển thư với nước ngoài.
5- Sau khi thống nhất với Bộ
Giao thông vận tải và Bưu điện, Tổng cục Hải quan bố trí cán bộ, nhân viên hải
quan làm việc tại các bưu cục ngoại dịch, và Bưu cục kiểm quan (đơn vị Hải quan
này gọi là Hải quan Bưu điện).
6- Tại các Bưu cục ngoại dịch và
Bưu cục kiểm quan.
Địa điểm kiểm tra hải quan do
Bưu điện cùng Hải quan cấp tỉnh thoả thuận và bố trí phù hợp với dây chuyền sản
xuất của Bưu điện, kể cả việc đặt máy.
Hải quan Bưu điện tự trang bị
phương tiện và thiết bị làm việc. Bưu điện địa phương tạo điều kiện, bố trí chỗ
thuận tiện cho Hải quan Bưu điện làm việc và mặt bằng nhất định để bảo quản bưu
phẩm, bưu kiện tạm giữ chờ hải quan xử lý.
II- QUY ĐỊNH
CỤ THỂ.
A- BƯU PHẨM, BƯU KIỆN XUẤT KHẨU.
1- Chấp nhận:
1.1- Quy định chung về chấp nhận:
a) Bưu điện chỉ chấp nhận gửi ra
nước ngoài những bưu phẩm , bưu kiện đã hoàn thành thủ tục hải quan.
b) Bưu phẩm, bưu kiện gửi đi nước
ngoài được chấp nhận ở các bưu cục, do Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam (Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện) quy định.
c) Cục Giám quản (Tổng cục Hải
quan) thông báo cho Tổng công ty Bưu chính và Viễn thông Việt Nam. (Bộ Giao
thông vận tải và Bưu điện) các loại vật phẩm, hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất
khẩu hoặc xuất khẩu có điều kiện của Nhà nước Việt Nam và những quy định về nhập
khẩu của Hải quan các nước (nếu có).
d) Tổng công ty Bưu chính Viễn
thông Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện) thông báo cho Cục Giám quản
(Tổng cục Hải quan) những loại vật phẩm, hàng hoá không được phép nhập hoặc nhập
khẩu có điều kiện vào các nước theo thông báo của Liên minh bưu chính Thế giới
(UPU).
1.2- Chấp nhận tại các bưu cục
có tổ chức Hải quan:
Người gửi xuất trình bưu phẩm,
bưu kiện với nhân viên hải quan để làm thủ tục hải quan.
Sau khi làm xong thủ tục hải
quan, người gửi tiến hành gói bọc có sự giám sát của nhân viên hải quan. Góc bọc
xong, nhân viên hải quan niêm phong và đóng dấu "Đã làm thủ tục hải
quan" và bao bì bưu phẩm, bưu kiện và các ấn phẩm liên quan. Sau đó Bưu điện
làm thủ tục chấp nhận bưu phẩm, bưu kiện theo đúng quy định của Thể lệ bưu
chính quốc tế.
1.3- Chấp nhận tại các bưu cục
không có tổ chức Hải quan:
Trong khi chờ đợi Hội đồng Bộ
trưởng quy định chi tiết việc thi hành điều 25 Pháp lệnh hải quan về việc cơ quan
bưu điện làm thủ tục hải quan ở những nơi không có tổ chức hải quan, Bộ Giao
thông vận tải và Bưu điện và Tổng cục Hải quan tạm thời tổ chức việc chấp nhận
bưu phẩm, bưu kiện đi nước ngoài tại các bưu cục không có tổ chức Hải quan như
sau:
a) Cục Giám quản (Tổng cục Hải
quan) thông báo cho Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (Bộ Giao thông vận
tải và Bưu điện) định mức hàng xuất đi nước ngoài, loại hàng không phải nộp thuế
xuất khẩu phi mậu dịch do Nhà nước quy định: Thuế suất của các mặt hàng chịu
thuế, lệ phí hải quan để các Bưu cục thông báo tại nơi giao dịch và tạm thu thuế,
lệ phí ở người gửi.
b) Khi gửi, người gửi phải xuất
trình vật phẩm, hàng hoá với nhân viên Bưu điện.
- Nếu vật phẩm, hàng hoá không
phải nộp thuế thì nhân viên bưu điện chấp nhận gửi đi theo đúng quy định của Thể
lệ bưu chính quốc tế.
- Nếu là vật phẩm, hàng hoá chịu
thuế thì nhân viên bưu điện căn cứ vào thuế suất của các mặt hàng chịu thuế và
lệ phí hải quan do Cục Giám quản (Tổng cục Hải quan) thông báo để tạm thu ở người
gửi các khoản:
+ Thuế, lệ phí hải quan ;
+ Cước phí thư chuyển tiền (để
chuyển tiền thuế) ;
+ Cước một thư ghi số (để Hải
quan gửi trả biên lai thuế).
Tiền thuế, lệ phí hải quan, cước
một thư ghi số Bưu điện phải chuyển cho Hải quan Bưu điện cùng với chuyến thư
có bưu phẩm, bưu kiện đi. Trong trường hợp này, Bưu điện yêu cầu người gửi phải
làm cam đoan khi có biên lai chính của Hải quan nếu thiếu tiền thuế thì phải nộp
thêm. Bưu điện phải hoàn lại người gửi số tiền thuế thu thừa và thu lại biên
lai tạm thu thuế.
2- Tổ chức kiểm tra hải quan tại
bưu cục Ngoại dịch và bưu cục kiểm quan.
2.1- Kiểm tra hải quan đối với
Bưu phẩm, bưu kiện từ các bưu cục không có tổ chức Hải quan chuyển đến.
a) Các bưu phẩm, bưu kiện từ các
bưu cục không có tổ chức hải quan chuyển đến, Bưu điện chịu trách nhiệm quản lý
cho đến khi hoàn thành thủ tục hải quan.
b) Khi tiến hành kiểm tra hải
quan, nhân viên bưu điện mở bưu phẩm, bưu kiện xuất trình để nhân viên hải quan
kiểm tra, nếu:
- Bưu phẩm, bưu kiện đủ điều kiện
xuất khẩu, nhân viên bưu điện gói bọc lại, nhân viên hải quan đóng dấu "ĐÃ
LÀM THỦ TỤC HẢI QUAN" lên vỏ bọc và giấy tờ liên quan, đồng thời viết biên
lai thu thuế, lệ phí hải quan gửi cho Bưu điện nơi chấp nhận bưu phẩm, bưu kiện
bằng thư ghi số. Ngoài bì, phải ghi rõ:"Biên lai thu thuế và lệ phí hải
quan".
- Bưu phẩm, bưu kiện không đủ điều
kiện xuất khẩu, Bưu cục ngoại dịch hay Bưu cục kiểm quan làm thủ tục chuyển
hoàn bưu phẩm, bưu kiện đó kèm theo phiếu báo lý do không xuất được của Hải
quan cho Bưu cục đã chấp nhận, để trả lời người gửi.
Người gửi phải trả cước hoàn
theo quy định của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam như đã cam đoan
khi ký gửi.
2.2- Tại bưu cục kiểm quan: Bưu
phẩm, bưu kiện sau khi hoàn thành thủ tục hải quan được đóng vào túi, gói riêng
gửi đến Bưu cục ngoại dịch cùng với chuyến thư có túi, gói trong nước. Sau khi
Bưu điện đã niêm phong cổ túi, gói, nhân viên Hải quan phải niêm phong bằng cặp
chì của mình cho từng túi, gói trước khi chuyển tới Bưu cục ngoại dịch
Tại Bưu cục ngoại dịch, khi nhận
được túi gói của Bưu cục Kiểm quan gửi đến, nhân viên Bưu điện mở túi, góc để
khai thác có sự chứng kiến của nhân viên hải quan. Các bưu phẩm, bưu kiện này
không phải qua thủ tục kiểm tra hải quan nữa mà chuyển thẳng tới bộ phận đóng
chuyển thư:
2.3- Đóng và giao túi thư đi nước
ngoài tại các Bưu cục ngoại dịch.
a) Khi nhân viên bưu điện đóng
túi gói cho chuyến thư đi nước ngoài, nhân viên hải quan phải giám sát từng bưu
phẩm, bưu kiện được đóng vào túi, gói.
b) Khi giao chuyến thư đi, nhân
viên hải quan giám sát từ lúc bắt đầu giao cho đến khi nhân viên bưu điện giao
xong cho nhân viên đi áp tải chuyến thư ra cửa khẩu. Trường hợp vận chuyển bằng
xe chuyên dùng hay bằng "Công-te-no", sau khi nhân viên bưu điện
khoá, thì nhân viên hải quan chỉ tiến hành niêm phong cửa xe hay cửa
"Công-te-nơ". Trường hợp vận chuyển túi, gói rời thì Hải quan chỉ tiến
hành cử nhân viên cùng đi áp taỉ đến cửa khẩu.
2.4- Giao chuyến thư đi tại cửa
khẩu.
a) Hải quan tại cảng biển, cảng
hàng không dân dụng quốc tế, ga xe lửa liên vận quốc tế chịu trách nhiệm giám
sát việc giao túi, gói, công-te-nơ chứa bưu phẩm, bưu kiện gửi đi nước ngoài
cho đến khi các túi, gói, công-te-nơ đó được đưa lên phương tiện chuyển để xuất.
b) Khi giao chuyến thư trong
tình trạng xấu, như thừa, thiếu, túi, gói hoặc túi, gói bưu phẩm, bưu kiện bị
rách, mất dấu niêm phong, thì túi, gói đó phải để lại ; nhân viên giao nhận
túi, gói ở cửa khẩu xác nhận túi, gói thực giao trên phiếu giao nhận chuyến thư
máy bay (AV7) hoặc phiếu giao nhận chuyến thư thuỷ bộ (C18) sau đó lập biên bản
nghiệp vụ có sự chứng kiến của nhân viên hải quan.
B- BƯU PHẨM, BƯU KIỆN NHẬP KHẨU.
1- Giao nhận túi, gói bưu phẩm,
bưu kiện nhập khẩu:
1.1- Tại cửa khẩu:
Hải quan tại các cửa khẩu có
trách nhiệm giám sát việc giao nhân những túi, gói bưu phẩm, bưu kiện từ nước
ngoài Việt Nam giữa Bưu điện với chủ phương tiện vận chuyển.
Khi nhận túi, gói bưu phẩm, bưu
kiện hoặc "công-te-nơ" bị rách, ướt, thủng, vỡ, mất cặp chì... nhân
viên bưu điện lập biên bản nghiệp vụ với cơ quan vận chuyển có nhân viên hải
quan chứng kiến, xác nhận vào biên bản.
Trong trường hợp túi, gói bưu phẩm,
bưu kiện bị mất niêm phong, bị rách, vỡ, vật phẩm, hàng hoá bên trong bị rơi
vãi ra ngoài, nhân viên bưu điện lập ngay biên bản nghiệp vụ với sự chứng kiến
và có chữ ký của nhân viên hải quan cửa khẩu. Biên bản phải được lập chi tiết từng
túi, gói, bưu phẩm, bưu kiện ; nội dung ghi rõ tình trạng thực tế, khối lượng
nguyên thuỷ từng túi, gói đó. Sau khi kiểm tra và lập biên bản xong, nhân viên
Bưu điện gói bọc lại, có sự chứng kiến của nhân viên Hải quan và nhân viên Hải
quan niêm phong để chuyển về Bưu cục ngoại dịch kèm theo biên bản đã lập (Biên
bản được lập thành ba bản, một bản do Hải quan cửa khẩu giữ, một bản do Bưu điện
giữ, một bản gửi kèm bưu phẩm, bưu kiện để phát cho người nhận (Biên bản ba
liên được viết một lần qua giấy than).
1.2- Vận chuyển từ cửa khẩu về
bưu cục ngoại dịch.
Khi vận chuyển túi, gói bưu phẩm,
bưu kiện từ cửa khẩu về Bưu cục ngoại dịch, tuỳ theo từng loại phương tiện vận
chuyển mà tiến hành thủ tục niêm phong. Việc niêm phong, giao nhận được thực hiện
như sau:
- Trên các chứng từ giao, nhận,
nhân viên bưu điện ghi rõ, ngày, giờ xuất phát.
- Khi vận chuyển bằng
"công-te-nơ", xe thùng kín, nhân viên hải quan phải cặp chì niêm
phong cửa xe, cửa "công-te-nơ".
- Trong trường hợp vận chuyển
túi, gói rời, cơ quan Hải quan cử người cùng đi áp tải hoặc niêm phong từng
túi, gói rời.
1.3- Giao nhận chuyển thư đến tại
Bưu cục ngoại dịch.
a) Nhân viên Hải quan kiểm tra niêm
phong trên các cửa xe chuyên dùng, cửa "công-te-nơ", túi... và cắt
niêm phong. Toàn bộ dây, chì, xi niêm phong và các vật chứng khác (nếu có) được
nhân viên bưu điện để riêng vào phong bì có ghi tóm tắt chuyến thư, số hiệu xe
vận chuyển, số hiệu "công-te-nơ" số hiệu chuyển thư, ngày giờ giao nhận
với nhân viên vận chuyển. Các vật chứng này chỉ được huỷ khi toàn bộ chuyến thư
đã khai thác xong không có vấn đề gì bất thường xẩy ra. Nếu phải lập biên bản để
xử lý thì các vật chứng đó được giữ lại theo Thể lệ bưu chính quốc tế.
Khi giao nhận chuyến thư đến,
nhân viên hải quan có trách nhiệm giám sát từ khi chuyển thư đến cho đến lúc
nhân viên đi áp tải giao xong chuyến tư cho Bưu cục ngoại dịch.
b) Sau khi giao nhận xong các
túi bưu phẩm, bưu điện được đưa vào khai thác với sự giám sát của Hải quan. Nếu
chưa có điều kiện khai thác ngay hoặc khai thác chưa xong, nhân viên bưu điện
chuyển các túi, gói, bưu phẩm, bưu kiện rồi vào kho chờ khai thác và khoá kho,
nhân viên hải quan niêm phong cửa kho. Khi mở kho làm việc, nhân viên hải quan
cắt niêm phong, nhân viên bưu điện mở khoá.
c) Trong trường hợp giao, nhận,
khai thác, có sự bất thường xảy ra, như túi, gói bị rạch, thiếu khối lượng mất niêm
phong của bưu cục gốc... Nhân viên nhận chuyển thư lập biên bản nghiệp vụ với
nhân viên áp tải, và gửi biên bản đó đến các bưu cục liên quan. Trong biên bản
đã lập phải có xác nhận của nhân viên hải quan.
Biên bản phải được lập chi tiết
từng túi, gói từng bưu phẩm, bưu kiện bị rách, thiếu khối lượng. Phải cân từng
túi, gói, từng bưu phẩm, bưu kiện, ghi chi tiết chất lượng, tên từng chủng loại
hàng hoá, vật phẩm trong từng bưu phẩm, bưu kiện. Biên bản lập phải kèm vật chứng
để xác định trách nhiệm.
2- Túi gói chuyển tiếp.
Túi, gói bưu phẩm, bưu kiện chuyển
tiếp tới Bưu cục ngoại dịch hay Bưu cục kiểm quan được xử lý như sau:
2.1- Túi, gói chuyển tiếp tới
Bưu cục ngoại dịch hay Bưu cục kiểm quan trong nước.
Bưu điện quản lý túi, gói đó ở một
kho riêng (hàng chưa làm thủ tục hải quan) có sự giám sát của Hải quan cho đến
khi Bưu điện làm xong thủ tục chuyển đi.
2.2- Túi gói chuyển tiếp tới nước
thứ ba (quá cảnh).
- Các túi, gói do Bưu điện Việt
Nam làm trung gian chuyển tiếp được Bưu điện để vào kho riêng lưu giữ, bảo quản
với sự giám sát của Hải quan trong thời gian lưu giữ ở Việt Nam cho tới khi
giao nhận cho chủ phương tiện vận chuyển.
- Khi giao túi, gói của chuyến
thư chuyển tiếp, nhân viên bưu điện kiểm tra nhãn túi, gói và tình trạng bên
ngoài của túi, gói với sự giám sát của nhân viên hải quan.
- Nhân viên bưu điện và hải quan
không được ghi bất kỳ ký hiệu, số thứ tự nào lên nhãn của túi hoặc gói của chuyến
thư đóng thẳng chuyển tiếp.
2.3- Nếu phát hiện túi, gói chuyển
tiếp trong tình trạng xấu (nghi ngờ nội dung bên trong không còn nguyên vẹn)
thì nhân viên bưu điện phải kiểm tra nội dung và gói bọc lại có sự giám sát của
nhân viên hải quan và nhân viên bưu điện lập phiếu kiểm (C14) gửi cho Bưu cục
đóng chuyến thư, Bưu cục nhận chuyến thư và một bản lưu. C14 được lập thành ba
bản, viết cùng một lần qua giấy than.
Bưu cục gói bọc lại phải giữ
nguyên vỏ bọc cũ và ghi lên nhãn mới lập các chú dẫn của nhãn cũ, đồng thời
đóng dấu ngày. Phía trước của dấu ngày phải ghi chữ "REEMBALLEA..."
(gói bọc lại tại bưu cục...)
3- Việc kiểm tra hải quan đối với
bưu phẩm, bưu kiện nhập khẩu:
3.1- Mở túi, gói, bưu phẩm, bưu
kiện.
Khi mở túi, gói bưu phẩm, bưu kiện
để khai thác, nhân viên hải quan cùng nhân viên bưu điện kiểm tra lại dấu niêm
phong, khối lượng, tình trạng từng túi, gói. Nhân viên bưu điện cắt dây niêm
phong cổ túi (việc giữ tang vật niêm phong cổ túi theo như điểm a, khoản 1,3,
phần B). Sau đó phân loại bưu phẩm, bưu kiện để nhân viên hải quan kiểm tra.
Túi, gói bưu phẩm, bưu kiện, và
bưu phẩm, bưu kiện rời chưa kiểm tra hải quan sau ca, sau ngày làm việc, nhân
viên bưu điện cho vào kho dành cho bưu phẩm, bưu kiện chưa làm thủ tục hải quan
để bưu điện lưu giữ, bảo quản có sự giám sát của hải quan.
3.2- Kiểm tra hải quan đối với
bưu phẩm, bưu kiện vắng mặt người nhận.
3.2.1- Quy định chung về phát
bưu phẩm, bưu kiện:
- Bưu kiện thay mặt chủ hàng làm
thủ tục hải quan đối với bưu phẩm, bưu kiện nhập khẩu. Trong trường hợp cần thiết,
bưu phẩm, bưu kiện nhập khẩu có thể kiểm tra hải quan trước mặt người nhận với
sự chứng kiến của Bưu điện.
- Bưu điện chỉ phát cho người nhận
những bưu phẩm, bưu kiện nhập khẩu đã hoàn thành thủ tục hải quan.
- Tất cả các bưu phẩm, bưu kiện
nhập khẩu đã hoàn thành thủ tục hải quan do Bưu điện quản lý và tổ chức phát đến
người nhận như đối với bưu phẩm, bưu kiện gửi trong nước.
3.2.2- Tổ chức kiểm tra hải quan
bưu phẩm, bưu kiện nhập khẩu.
A- KIỂM NGUYÊN ĐAI, NGUYÊN KIỆN:
Nhân viên bưu điện trình bưu phẩm,
bưu kiện để nhân viên hải quan kiểm tra. Kiểm tra xong, nhân viên hải quan đóng
dấu "ĐÃ HOÀN THÀNH THỦ TỤC HẢI QUAN" vào vỏ bọc bưu phẩm, bưu kiện và
các chứng từ kèm theo, sau đó giao lại bưu phẩm, bưu kiện cho nhân viên bưu điện.
Bưu điện quản lý và tổ chức phát
bưu phẩm, bưu kiện đến người nhận.
B- MỞ GÓI BƯU PHẨM, BƯU KIỆN ĐỂ
KIỂM TRA HẢI QUAN:
Trước khi mở từng bưu phẩm, bưu
kiện để xuất trình nhân viên Hải quan kiểm tra, nhân viên bưu điện cân lại khối
lượng của bưu phẩm, bưu kiện. Căn cứ kết quả kiểm tra hải quan, nhân viên bưu
điện ghi chi tiết số lượng, khối lượng, tên từng vật phẩm, hàng hoá vào hai tờ
khai hải quan. Sau đó nhân viên hải quan và nhân viên bưu điện cùng ký và ghi
rõ họ tên trên cả hai tờ khai hải quan. Tờ khai hải quan được viết một lần hai
liên qua giấy than (một tờ do Hải quan giữ, một tờ được gửi kèm theo bưu phẩm,
bưu kiện để phát tới người nhận).
Trong khi kiểm tra hải quan, nếu
có vật phẩm, hàng hoá cần phải kiểm tra kỹ lưỡng bằng phương pháp kỹ thuật,
nhân viên Hải quan lấy riêng ra, khi xem xét cụ thể phải có nhân viên Bưu điện
cùng tham gia. Kiểm tra xong, vật phẩm, hàng hoá đó được để vào trong túi cùng
với vật phẩm hàng hoá khác của gói đó.
Nếu là hàng hoá phải nộp thuế và
lệ phí hải quan, nhân viên Hải quan tính thuế và lập giấy báo thuế gửi kèm bưu
phẩm, bưu kiện.
Làm xong thủ tục hải quan, nhân viên
bưu điện gói bọc, cân lại và ghi khối lượng tới đơn vị gam (g) vào vỏ bọc bưu
phẩm, bưu kiện và các giấy tờ kèm theo có sự giám sát của nhân viên hải quan,
nhân viên hải quan niêm phong lên các mép vỏ bọc, dây buộc và đóng dấu "ĐÃ
LÀM THỦ TỤC HẢI QUAN" vào vỏ bọc bưu phẩm, bưu kiện và các giấy tờ liên
quan ; nếu là bưu phẩm, bưu kiện phải nộp thuế, thì đóng dấu "HÀNG CÓ THUẾ"
vào vỏ bọc và các giấy tờ kèm theo (dấu được dùng bằng mực đỏ).
C- GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP ĐẶC
BIỆT KHI KIỂM TRA HẢI QUAN VÀ PHÁT BƯU PHẨM, BƯU KIỆN NHẬP KHẨU.
1- Bưu phẩm, bưu kiện có thuế và
lệ phí hải quan.
1.1- Tại các bưu cục có tổ chức
hải quan.
Việc thu thuế và lệ phí hải quan
do nhân viên hải quan thực hiện. Khi phát bưu phẩm, bưu kiện có thuế nhân viên
bưu điện làm thủ tục phát với người nhận, sau đó chuyển bưu phẩm, bưu kiện có
thuế sang bộ phận Hải quan để người nhận nộp thuế.
1.2- Tại các bưu cục không có tổ
chức hải quan.
Nhân viên bưu điện chỉ phát bưu
phẩm, bưu kiện cho người nhận sau khi đã thu đủ thuế, lệ phí hải quan và các
khoản thu của bưu điện. Bưu điện nơi thu thuế được hưởng tỷ lệ hoa hồng 3%
trong tổng số tiền thuế và lệ phí Hải quan đã thu. Số tiền còn lại được chuyển
trả về Hải quan bưu điện đã tính thuế bằng thư chuyển tiền có cước. Giấy báo
thu thuế được tính cùng với thư chuyển tiền để gửi trả Hải quan bưu điện. Việc
chuyển trả tiền thuế và lệ phí hải quan không được để chậm quá ba ngày, kể từ
ngày thu.
2- Xử lý bưu phẩm, bưu kiện có
hàng hoá cấm nhập.
2.1- Khi kiểm tra hải quan, nếu
phát hiện toàn bộ vật phẩm, hàng hoá trong bưu phẩm, bưu kiện, là hàng nhập
trái phép, Hải quan phải lập biên bản vi phạm tạm giữ hàng và tang vật vi phạm
để chờ xử lý, đồng thời cùng với bưu điện lập biên bản (C14) ghi rõ lý do tạm
giữ, tên vật phẩm, hàng hoá tạm giữ. Biên bản vi phạm và biên bản (C14) đều lập
thành 3 bản, viết cùng một lần qua giấy than. Biên bản vi phạm có chữ ký của
nhân viên hải quan và nhân viên bưu điện (1 bản kèm bưu phẩm, bưu kiện ; 1 bản
bưu điện giữ ; 1 bản hải quan lưu).
2.2- Trong trường hợp bưu phẩm,
bưu kiện chỉ có một phần là hàng nhập trái phép, Hải quan phải lập biên bản vi
phạm tạm giữ phần hàng đó và tang vật vi phạm để lại chờ xử lý và cùng bưu điện
lập biên bản (C14) ghi chi tiết nội dung vật phẩm, hàng hoá tạm giữ như điểm
2.1. trên và ghi chi tiết nội dung, vật phẩm hàng hoá còn lại để phát cho người
nhận.
2.3- Vật phẩm, hàng hoá mà Hải
quan tạm giữ để chờ xử lý, khi mang ra khỏi khu vực bưu điện phải xuất trình
biên bản vi phạm cùng vật phẩm, hàng hoá cho cán bộ bảo vệ của cơ quan bưu điện
đối chiếu số hàng mang ra với biên bản và ghi chú vào mặt sau biên bản
"Hàng xuất ra ngày, tháng, năm" rồi ký và ghi rõ họ tên.
2.4- Bưu phẩm, bưu kiện hoặc vật
phẩm, hàng hoá do Hải quan tạm giữ, chậm nhất sau 15 ngày kể từ ngày tạm giữ, Hải
quan phải thông báo kết quả xử lý cho bưu điện.
Nếu bưu phẩm, bưu kiện phải xử
lý tịch thu một phần hay toàn bộ vật phẩm hàng hoá đựng trong bưu phẩm, bưu kiện
thì Hải quan đều phải giao cho Bưu điện hai bản Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính (quyết định tịch thu một phần hay tịch thu toàn bộ bưu phẩm, bưu kiện)
theo quy định của pháp luật (một bản Bưu điện lưu, một bản Bưu điện gửi cho người
gửi hoặc người nhận).
Trường hợp bưu phẩm, bưu kiện chứa
vật phẩm, hàng hoá cấm xuất hay cấm nhập, gây nguy hại cho nền an ninh, kinh tế,
chính trị mà Hải quan ra quyết định khởi tố hình sự theo quy định của pháp luật
thì phải giao cho Bưu điện hai bản quyết định khởi tố hình sự (một bản Bưu điện
lưu, một bản Bưu điện gửi cho người gửi hoặc người nhận).
Nếu bưu phẩm, bưu kiện được trả
lại cho người có quyền hưởng một phần hay toàn bộ vật phẩm, hàng hoá đựng trong
bưu phẩm, bưu kiện thì Hải quan phải gửi quyết định trả lại kèm theo vật phẩm,
hàng hoá đã tạm giữ cho Bưu điện và thu hồi lại biên bản đã lập, đồng thời phải
bổ sung vào tờ khai hải quan một phần hay toàn bộ vật phẩm, hàng hoá, được trả
lại đó. Nhân viên bưu điện phải đối chiếu vật phẩm, hàng hoá trả lại với tờ
khai hải quan. Sau đó nhân viên Bưu điện và nhân viên Hải quan làm thủ tục nhập
kho, bưu phẩm, bưu kiện đó được chuyển phát tới người nhận theo quy định.
3- Bưu phẩm, bưu kiện không phát
được cho người nhận.
3.1- Tại các cơ sở bưu điện khác
(kể cả Bưu điện có kiểm quan), bưu phẩm, bưu kiện không phát được cho người nhận,
chỉ lưu giữ tại bưu cục trong thời gian 30 ngày kể từ sau ngày mời lần thứ 1.
Sau 30 ngày, phải chuyển các bưu phẩm, bưu kiện về bưu cục ngoại dịch đã chuyển
bưu phẩm, bưu kiện đến để xử lý theo Thể lệ bưu chính Thế giới (công ty Bưu
chính liên tỉnh và quốc tế khu vực I, khu vực II).
3.2- Tại bưu cục ngoại dịch, những
bưu phẩm, bưu kiện không phát được cho người nhận, quá thời hạn lưu giữ 60 ngày
Bưu điện phải làm thủ tục chuyển hoàn nước gốc để phát hoàn cho ngươì gửi.
Trong trường hợp này, Bưu điện làm thủ tục tái xuất với Hải quan.
Bưu điện hoàn lại Hải quan các
giấy tờ liên quan khi nhập bưu phẩm, bưu kiện đó (nếu có).
3.3- Những bưu phẩm, bưu kiện mà
người gửi không có yêu cầu gì, không phát được cho người nhận và cũng không
hoàn lại được nước gốc ; những vật phẩm, hàng hoá bị rơi vãi mà không xác định
được chủ hàng đều được coi như bưu phẩm, bưu kiện vô thừa nhận.
3.4- Những bưu phẩm, bưu kiện bị
mất một phần nội dung do lỗi của Bưu điện gây nên, ngành Bưu điện đã bồi thường
đầy đủ theo quy định của Pháp luật, thì số vật phẩm, hàng hoá còn lại thuộc quyền
xử lý của Bưu điện.
4- Bưu phẩm, bưu kiện có vật chất,
hàng hoá chịu sự quản lý của cơ quan quản lý chuyên ngành (văn hoá, y tế, kiểm
dịch...)
Khi làm thủ tục kiểm tra, nếu thấy
vật phẩm hàng hoá trong bưu phẩm, bưu kiện chịu sự quản lý của cơ quan quản lý
chuyên ngành thì Hải quan Bưu điện xử lý theo các quy định tại các văn bản liên
ngành giữa Bưu điện với các cơ quan quản lý chuyên ngành đó.
III- MỐI QUAN
HỆ CÔNG TÁC GIỮA HAI CƠ QUAN
1- Tổ chức sản xuất
1.1- Ở các Bưu cục ngoại dịch và
bưu cục có kiểm quan, Giám đốc Bưu điện và Giám đốc Hải quan tỉnh, thành phố, đặc
khu được sự uỷ quyền của Bộ giao thông vận tải và Bưu điện và của Tổng cục Hải
quan cùng ký kết hợp đồng về mối quan hệ phối hợp, trách nhiệm của hai bên và
cam kết thực hiện hợp đồng đó về các mặt: bố trí nhân lực để giải quyết lưu
thoát bưu phẩm, bưu kiện, ổn định hàng ngày (bao gồm đối với bộ phận tiếp dân,
bộ phận khai thác ; ở các bưu cục ngoại dịch khi nhận chuyến thư đến ngoài giờ
làm việc hoặc chuyển thư đột xuất và các trường hợp có công việc đột xuất
khác...)
1.2- Tại nơi làm việc chung của
Hải quan và Bưu điện phải có bản nội quy làm việc. Trong bản nội quy cần nêu
rõ: kỷ luật làm việc, quan hệ giữa hai ngành, thái độ phục vụ nhân dân.
Bản nội dung phải được hai bên
nhất trí và niêm yết tại nơi làm việc để nhân viên của hai đơn vị cùng thực hiện.
Từng thời gian, hai bên tổng kết
rút kinh nghiệm việc thực hiện. Thông tư này, có sự tham gia của Tổng công ty
Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Cục Giám quản (Tổng cục Hải quan).
2- Quản lý kho chứa túi, gói bưu
phẩm, bưu kiện:
2.1- Đối với túi, gói bưu phẩm,
bưu kiện xuất khẩu đã hoàn thành thủ tục hải quan, Hải quan phải giám sát cho đến
khi các túi, gói, bưu phẩm, bưu kiện rời đó giao xong cho chủ phương tiện vận
chuyển. Túi, gói, bưu phẩm, bưu kiện rời nhập khẩu đã hoàn thành thủ tục hải
quan do Bưu điện chịu trách nhiệm quản lý phát tới người nhận.
2.2- Hải quan chỉ giám sát các
kho chứa túi, gói bưu phẩm, bưu kiện rời nhập khẩu chưa hoàn thành thủ tục hải
quan. Ở các bưu cục có Hải quan mà bưu phẩm, bưu kiện do Bưu điện đã làm xong
thủ tục phát cho người nhận nhưng người nhận chưa làm xong thủ tục hải quan mà
Hải quan yêu cầu tạm giữ lại thì các bưu phẩm, bưu kiện này do nhân viên Hải
quan quản lý chịu trách nhiệm với người nhận.
2.3- Chế độ kiểm tra:
Trường hợp cần kiểm tra kho, thì
Trưởng đơn vị mỗi bên phải báo trước để có sự phối hợp của cả hai bên.
Khi kiểm tra, hai bên phải lập
biên bản, có đầy đủ chữ ký, họ tên, chức vụ của những người tham gia kiểm tra.
3- Trách nhiệm vật chất đối với
người sử dụng bưu điện:
3.1- Trong khi kiểm tra hoặc tạm
giữ vật phẩm, hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của khách hàng để xử lý, nếu nhân
viên hải quan làm hư hỏng, mất thì nhân viên hải quan phải chịu trách nhiệm bồi
thường theo pháp luật hải quan.
3.2- Đối với bưu phẩm, bưu kiện
có thuế suất sau khi đã hoàn thành thủ tục hải quan nhưng bị mất do lỗi của Bưu
điện (trừ trường hợp bất khả kháng) thì Bưu điện phải chịu trách nhiệm bồi thường
theo pháp luật bưu điện.
IV- ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
1- Căn cứ nội dung Thông tư này,
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện)
và Cục Giám quản (Tổng cục Hải quan) tập huấn hướng dẫn các cơ sở trực thuộc thực
hiện.
2- Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1991 và thay thế thông tư liên bộ Ngoại thương -
Tổng cục Bưu điện số 08/TTLB-NGT-TCBĐ ngày 17 tháng 6 năm 1981.
Lâm
Văn Độ
(Đã
ký)
|
Lê
Khả
(Đã
ký)
|