TỔNG
CỤC THỐNG KÊ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
856-TKTH
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 10 năm 1964
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 112-CP NGÀY 22-07-1964 CỦA
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC XÉT DUYỆT, CÔNG NHẬN VÀ CÔNG BỐ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH Ở
CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ
Để thi hành Quyết định số 112-CP
ngày 22-07-1964 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 71-TTg cùng ngày của Thủ tướng
Chính phủ, Tổng cục Thống kê hướng dẫn và giải thích rõ thêm một số điểm cụ thể
về việc xét duyệt, công nhận và công bố hoàn thành kế hoạch ở các đơn vị cơ sở
như sau:
I. VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN CÁC CHỈ TIÊU
Điểm 4, phần II trong thông tư số
71-TTg ngày 22-07-1964 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định : “… Các chỉ tiêu đã
được quy định đều phải thống nhất về nội dung, thời gian và phương pháp tính
toán trong chế độ báo cáo thống kê và chế độ kế toán Nhà nước”.
Nay giải thích cụ thể như sau:
1. Các chỉ tiêu xét duyệt,
công nhận hoàn thành kế hoạch nói chung về nội dung và phương pháp tính toán đều
có theo phương pháp của chế độ báo cáo thống kê do Tổng cục Thống kê đã ban
hành. Tuy vậy, trong năm 1964 ở một số ngành có một số chỉ tiêu về nội dung và
phương pháp tính toán chưa thống nhất được giữa cơ quan thống kê và cơ quan kế
hoạch. Đối các chỉ tiêu này, các đơn vị một mặt phải tính theo nội dung và
phương pháp đã quy định trong chế độ báo cáo thống kê, một mặt được tính theo nội
dung và phương pháp khi lập kế hoạch, để so sánh và xác định tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch.
Gặp trường hợp này, các đơn vị cần
ghi rõ trong báo cáo để tiện cho việc kiểm tra và xét duyệt của cấp trên.
2. Riêng các chỉ tiêu về
giá thành toàn bộ, phí lưu thông, nộp tích lũy và các khoản phải nộp khác, về nội
dung và phương pháp tính theo phương pháp của chế độ kế toán do Bộ Tài chính đã
ban hành.
Để bảo đảm xét duyệt kịp thời chỉ
tiêu giá thành và phí lưu thông, thì việc tính toán hai chỉ tiêu này được dựa
vào số liệu chính thức của 11 tháng đầu năm và ước tính tháng 12. Thủ trưởng
đơn vị báo cáo phải chịu trách nhiệm trước Bộ chủ quản về những số liệu chính
thức và ước tính này.
Về nộp tích lũy và các khoản phải
nộp khác, không những phải hoàn thành kế hoạch đã quy định mà còn phải nộp đúng
thời hạn, đúng chính sách, kỷ luật lao động nộp, không được lấy tiền vốn hoặc
các loại qũy khác nộp thay.
Riêng về nộp khấu hao cơ bản,
thì căn cứ tỷ lệ trích khấu hao đối với tài sản cố định thực có (trong trường hợp
tài sản cố định tăng hoặc giảm không đúng như kế hoạch đã quy định).
3. Việc xác định hoàn
thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch tính theo tỷ lệ phần trăm (%). Những chỉ
tiêu nào so với kế hoạch đạt 100% là hoàn thành kế hoạch, trên 100% là hoàn
thành vượt kế hoạch.
II. KẾ HOẠCH LÀM CĂN CỨ ĐỂ XÉT DUYỆT
Điểm 1 và 2, phần II trong
thông tư số 71-TTg ngày 22-07-1964 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định, nay giải
thích rõ thêm như sau: trường hợp một số sản phẩm ghi trong kế hoạch Nhà nước
hoặc kế hoạch của địa phương mà chỉ có một đơn vị sản xuất thì mức hoàn thành kế
hoạch về sản phẩm ấy của đơn vị sản xuất không được thấp hơn chỉ tiêu về sản phẩm
ấy của kế hoạch Nhà nước (nếu đơn vị ấy thuộc Bộ và cơ quan trung ương quản lý)
hoặc không được thấp hơn kế hoạch của Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố (nếu
đơn vị ấy thuộc các địa phương quản lý).
III. GIẢI THÍCH MỘT SỐ ĐIỂM CỤ THỂ VỀ
CÁC CHỈ TIÊU XÉT DUYỆT HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH
A. Đối với xí nghiệp công nghiệp.
1. Chỉ tiêu giá trị tổng
sản lượng và giá trị sản lượng thương phẩm.
Đây là hai phần trong một
chỉ tiêu, cả hai phần đều hoàn thành kế hoạch mới được coi là hoàn thành kế hoạch
chỉ tiêu này.
2. Chỉ tiêu sản phẩm chủ yếu.
Chỉ tiêu này được công nhận
là hoàn thành kế hoạch khi tất cả các mặt hàng chủ yếu ghi trong kế hoạch đều
phải hoàn thành. Gặp trường hợp hầu hết mặt hàng chủ yếu đều hoàn thành kế hoạch,
cò một số mặt hàng nào đó chỉ đạt xấp xỉ kế hoạch, mà xét thấy không ảnh hưởng
nhiều đến sản xuất, tiêu thụ và các hoạt động của bản thân xí nghiệp và các xí
nghiệp bạn có liên quan, thì có thể được công nhận hoàn thành kế hoạch.
Sản phẩm chủ yếu ghi trong kế hoạch
phải rõ ràng, cụ thể. Nếu kế hoạch giao cho xí nghiệp chưa ghi rõ sản phẩm chủ
yếu thì đơn vị cơ sở phải báo cáo để cơ quan kế hoạch xác định trước khi xét
duyệt.
3. Chỉ tiêu năng suất lao động
một công nhân viên.
Tính theo công nhân viên sản
xuất công nghiệp, không tính nhân viên ngoài sản xuất công nghiệp và nhân viên
cấp dưỡng, giữ trẻ.
4. Chỉ tiêu giá thành toàn bộ.
Khi xét duyệt chỉ tiêu này
sẽ xét duyệt ba mặt sau đây:
a) Tỷ lệ hạ giá thành toàn bộ sản
phẩm thương phẩm có thể so sánh và không so sánh được, so với kế hoạch;
b) Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch giá
thành cho một đơn vị sản phẩm so với kế hoạch (chỉ xét duyệt những mặth hàng
nào cơ quan cấp trên có thể giao kế hoạch);
c) Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về
mức tiết kiệm tuyệt đối.
Nếu một trong ba mặt trên không
hoàn thành thì coi như không hoàn thành kế hoạch giá thành toàn bộ.
Trong năm 1964, có xí nghiệp được
cơ quan cấp trên điều chỉnh kế hoạch về cơ cấu và sản lượng mặt hàng, nhưng
chưa kịp điều chỉnh kế hoạch giá thành, thì khi tính giá thành toan bộ được
tính theo kế hoạch sản lượng đã điều chỉnh để xét duyệt chỉ tiêu này.
5. Chỉ tiêu nộp tích lũy và
các khoản phải nộp khác.
Nội dung của chỉ tiêu này gồm nộp
lãi (hoặc kế hoạch bù lỗ) nộp thuế, nộp khấu hai cơ bản, nói chung áp dụng đối
với các xí nghiệp quốc doanh trung ương và xí nghiệp quốc doanh địa
phương.
Chú thích: Đối với các xí nghiệp
điện trong lưới, các lâm trường khai thác gỗ có hướng dẫn ở bản phụ lục kèm
theo thông tư này.
B. Đối với các công trường
xây dựng cơ bản.
a) Công trình tự làm và đơn vị
kiến thiết (bên A).
1. Tổng mức đầu tư chia theo cấu
thành (xây, lắp, thiết bị kiến thiết cơ bản khác).
Đây là tổng mức đầu tư của toàn
bộ công trình. Khi nào cả tổng mức đầu tư và cấu thành về xây và lắp đều hoàn
thành kế hoạch mới được xét duyệt hoàn thành kế hoạch về chỉ tiêu này.
2. Chỉ tiêu mức đầu tư các hạng
mục công trình chủ yếu (nếu có).
Hạng mục công trình chủ yếu là
những hạng mục chính, quan trọng trong một công trình. Đối những công trình trọng
điểm của Nhà nước, nếu chưa có quy định chính thức những hạng mục công trình chủ
yếu cho từng công trình, thì Bộ chủ quản cần sớm trình Nhà nước quy định.
3. Tiến độ hoàn thành các hạng mục
công trình chủ yếu.
Chỉ tiêu này chỉ áp dụng đối với
các công trình trọng điểm của trung ương. Tiến độ hoàn thành các hạng mục công
trình chủ yếu quy định ở đây là tiến độ thi công các hạng mục công trình chủ yếu.
Ví dụ: hạng mục công trình chủ yếu A (trong công trường B) theo tổng tiến độ
quy định đến hết tháng 12-1964 phải hoàn thành phần xây móng, đến hết tháng
12-1964 đã xây xong móng, như vậy là hoàn thành tiến độ thi công; ngược lại đến
hết tháng 12-1964 chưa xây xong móng, như vậy là không hoàn thành đúng tiến độ
quy định.
Toàn bộ một công trình trọng điểm
của trung ương có bao nhiêu hạng mục công trình chủ yếu, khi tất cả các hạng mục
công trình chủ yếu đó đều hoàn thành tiến độ thi công, mới được công nhận là
hoàn thành chỉ tiêu này.
4. Thời gian hoàn thành và thời
gian bàn giao cho sản xuất.
Khi những hạng mục công trình,
hoặc toàn bộ công trình đã bàn giao cho đơn vị sử dụng thời hạn quy định trong
kế hoạch với đầu đủ thủ tục nghiệm thu sử dụng của Hội đồng nghiệm thu Nhà nước,
thì mới được coi là hoàn thành chỉ tiêu này.
b) Các công ty, công trình nhận
thầu (bên B).
1. Giá trị khối lượng thi
công xong theo tiêu chuẩn kỹ thuật quy định.
Đây là giá trị thành phẩm trung
gian mới thi công xong đến thứ tự công việc nhất định, đúng tiêu chuẩn kỹ thuật
và phải được bên A xác nhận bằng văn bản để thanh toán tiền. Giá trị khối lượng
thi công xong không phải là giá trị sản phẩm kiến trúc, cũng không phải là giá
trị hạng mục công trình, hoặc giá trị toàn bộ công trình nói chung.
Không được tính giá trị của khối
lượng thi công xong ngoài kế hoạch; giá trị của khối lượng thi công xong nhưng
chưa đủ tiêu chuẩn chất lượng, hoặc chưa được văn bản của bên A xác nhận thanh
toán tiền cũng không được tính.
Giá trị khối lượng thi công xong
tính theo giá dự toán. Nếu không có giá dự toán thì tính theo giá do hai bên A
và B tạm thời thống nhất được cơ quan duyệt giá thông qua.
2. Hạng mục công trình hoàn
thành và bàn giao đúng thời hạn ghi trong hợp đồng.
Đây là hạng mục công trình
của bên B giao cho bên A đã hoàn thành và bàn giao theo đúng thủ tục nghiệm thu
của Hội đồng nghiệm thu cơ sở.
Trường hợp các hạng mục công
trình quy định trong hợp đồng không bàn giao hết, nhưng lại bàn giao một số hạng
mục công trình khác ngoài hợp đồng, vẫn không được công nhận là hoàn thành kế
hoạch chỉ tiêu này.
3. Năng suất lao động một
công nhân viên.
Chỉ tính năng suất lao động
cho một công nhân viên trong xây lắp (không tính công nhân viên ngoài xây lắp
và những người làm công tác phục vụ như cấp dưỡng, giữ trẻ, phục vụ nhà ở công
cộng, giáo viên văn hóa…).
Về nội dung và phương pháp thì
tính toán đúng phương pháp do Tổng cục Thống kê đã ban hành (quyết định số
111-TCTK-CB ngày 25-05-1964 của Tổng cục Thống kê).
Chú thích: Trong một công
trường xây dựng cơ bản, có những trưởng hợp do khó khăn khách quan (như thiếu
nguyên vật liệu, thiết bị) mà không hoàn thành kế hoạch đầu tư, làm ảnh hưởng tới
thời gian bàn giao, mà không kịp thời thay đổi kế hoạch, thì giải quyết theo
như điểm 5 phần II trong thông tư số 71-TTg ngày 22/7/1964 của Thủ tướng Chính
phủ.
C. Đối với các nông trường quốc
doanh.
1. Chỉ tiêu giá trị tổng sản
lượng.
Khi xét duyệt chỉ tiêu này
phải chú ý đến việc hoàn thành kế hoạch giá trị sản lượng các loại sản phẩm chính
về trồng trọt và chăn nuôi.
Nếu giá trị sản lượng những sản
phẩm chính không hoàn thành kế hoạch, thì mặc dù giá trị tổng sản lượng có hoàn
thành hoặc hoàn thành vượt mức kế hoạch; cũng không được công nhận hoàn thành
chỉ tiêu này.
2. Chỉ tiêu diện tích, năng
suất, sản lượng.
Trong sản xuất nông nghiệp
các mặt diện tích, năng suất, sản lượng có quan hệ với nhau. Vì vậy khi xét đuyệt
chỉ tiêu này phải xét đầu đủ các mặt trên. Riêng về diện tích cây lâu năm nhất
là những cây chủ yếu quy định trong kế hoạch, phải hoàn thành về diện thích trồng,
đồng thời bảo đảm đúng chất lượng kỹ thuật; nếu chỉ hoàn thành kế hoạch về diện
tích, nhưng cây trồng không đúng kỹ thuật, hư hỏng qúa mức quy định, thì coi
như không hoàn thành về diện tích.
Tuy vậy sản xuất nông nghiệp còn
phụ thuộc thời tiết. Nếu gặp trường hợp bị thiên tai, diện tích không bảo
đảm đạt kế hoạch thì khi xét duyệt phải chú ý đến kết quả cuối cùng của sản xuất
nông nghiệp là năng suất và sản lượng. Cụ thể trong trường hợp này là: nếu diện
tích gieo trồng (cả cây lâu năm và cây hàng năm) không hoàn thành kế hoạch
nhưng do chăm sóc thực hiện các biện pháp thâm canh tốt, nên năng suất bình
quân và sản lượng thu hoạch nói chung, và riêng từng loại ccây chủ yếu vẫn đảm
bảo hoàn thành kế hoạch, thì có thể được xét duyệt chỉ tiêu này hoàn thành kế
hoạch.
3. Chỉ tiêu về số lượng gia
súc, sản lượng và chất lượng chăn nuôi.
Khi xét duyệt chỉ tiêu này
phải chú ý đến số lượng đàn súc vật chủ yếu ghi trong kế hoạch nông trường. Khi
xét về số lượng đàn gia súc, đồng thời phải chú ý đến mặt chất lượng như chăm
sóc, tỷ lệ đẻ và tỷ lệ nuôi sống của đàn súc vật đó. Nói chung khi cả về số lượng
gia súc và sản lượng chăn nuôi đều thực hiện đúng như kế hoạch quy định mới coi
là hoàn thành.
Tuy vậy có trường hợp số lượng đàn
súc vật nói chung chưa đạt kế hoạch, nhưng đàn súc vật chủ yếu đã hoàn thành và
chất lượng tốt (chăm sóc tốt, tỷ lệ đẻ và tỷ lệ nuôi sống các loại súc vật cao)
làm cho sản lượng sản phẩm chăn nuôi hoàn thành kế hoạch, thì cũng có thể được
công nhận và hoàn thành kế hoạch.
Ngược lại sản lượng sản phẩm các
loại chủ yếu không hoàn thành kế hoạch, thì mặc dù số lượng đàn gia súc vật có
vượt kế hoạch cũng không được công nhận là hoàn thành chỉ tiêu này.
4. Chỉ tiêu sản phẩm trồng trọt
và sản phẩm chăn nuôi nộp cho Nhà nước.
Sản phẩm nộp cho Nhà nước
bao gồn phần giao cho mậu dịch hay xí nghiệp chế biến, và số lượng sản phẩm Nhà
nước quy định cho nông trường để lại cung cấp cho cán bộ, công nhân viên theo
tiêu chuẩn chung.
Nói chung những sản phẩm giao nộp
(nhất là nhữg sản phẩm chủ yếu) phải hoàn thành kế hoạch, thì mới được xét duyệt
là hoàn thành toàn bộ chỉ tiêu này.
Trường hợp do khó khăn khách
quan có một số ít sản phẩm chủ yếu không hoàn thành kế hoạch, nhưng nông trường
lại khắc phục khó khăn tăng thêm sản phẩm khác giao nộp ngoài kế hoạch được cấp
trên đồng ý, cũng có thể được công nhận là hoàn thành chỉ tiêu này. Nếu không,
thì giải quyết theo như điểm 5, phần II trong thông tư số 71-TTg ngày 22/7/1964
của Thủ tướng Chính phủ.
5. Chỉ tiêu về xây dựng cơ bản.
Chỉ tiêu này chủ yếu xét về diện
tích trồng mới cây lâu năm và các công trình chủ yếu phục vụ sản xuất của nông
trường. Nếu hai phần này hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức kế hoạch, mà diện
tích khai hoang mới đạt xấp xỉ kế hoạch được cơ quan xét duyệt đồng ý, cũng có
thể được công nhận hoàn thành chỉ tiêu này.
6. Chỉ tiêu năng suất lao động
(hoặc ngày công lao động)
Chỉ xét duyệt một trong hai chỉ
tiêu nói trên, tùy theo kế hoạch của từng nông trường.
Nơi nào tính theo ngày công lao
động chỉ tính phần lao động thường xuyên trực tiếp sản xuất và tính chung ngày
công lao động trồng trọt và chăn nuôi.
Năng suất lao động một công nhân
viên chỉ tính cho một công nhân viên sản xuất (kể cả chế biến nông sản) không
tính những người phục vụ như cấp dưỡng, giữ trẻ, phục vụ nhà ăn, nhà ở công cộng,
giáo viên văn hóa, cán bộ Đảng, đoàn thể chuyên trách…
D. Đối với lâm trường trồng rừng.
1. Diện tích rừng đã trồng với
chất lượng bảo đảm.
Chỉ tiêu này phải hoàn
thành cả về diện tích và số lượng từng loại cây trồng do kế hoạch quy định. Mặt
khác cây đã trồng phải bảo đảm đúng quy định kỹ thuật, đạt tỷ lệ cây sống và
sinh trưởng theo quy định trong kế hoạch cho từng loại (như đối với cây trồng
có bầu, cây trồng rễ trần, cây trồng bằng hạt gieo thẳng…).
Trường hợp kế hoạch chưa quy định
được tỷ lệ cây sống và sinh trưởng thì cơ quan xét duyệt căn cứ tình hình thì
cơ quan xét duyệt kế hoạch căn cứ tình hình thực tế để nhận xét và quyết định.
2. Diện tích trồng rừng loại
cây chủ yếu đúng kỹ thuật.
Chỉ tiêu này yêu cầu phải hoàn
thành cả về diện tích và đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật trồng. Nếu một lâm trường
có nhiều loại cây chủ yếu, không hoàn thành kế hoạch về diện tích hoặc đã hoàn
thành kế hoạch về diện tích hoặc đã hoàn thành về diện tích trồng nhưng không đảm
bảo đúng kỹ thuật, thì không được xét duyệt, công nhận là hoàn thành kế hoạch
chỉ tiêu này.
Các loại cây chủ yếu do Tổng cục
Lâm nghiệp quy định (đối các lâm trường trực thuộc Tổng cục quản lý) Sở, Ty Lâm
nghiệp quy định (đối với lâm trường thuộc Sở, Ty quản lý).
Quy trình kỹ thuật các loại cây
chủ yếu phải căn cứ vào sự kiểm tra xác nhận của cơ quan kỹ thuật của lâm trường
đúng thủ tục đã quy định.
3. Năng suất lao động một
công nhân viên.
Tính năng suất lao động bằng giá
trị. Trong tình hình thực tế hiện nay của lâm trường có khó khăn, thì được tính
theo số ngày công trên đơn vị diện tích trồng rừng. Các năm sau phải tạo điều
kiện để tính theo giá trị.
Chỉ tính năng suất lao động một công
nhân viên trồng rừng (kể cả gián tiếp và trực tiếp) không tính nhân viên ngoài
trồng rừng (nhu cầu chăn nuôi, chê biến phụ) và nhân viên phục vụ khác như cấp
dưỡng, giữ trẻ…
E. Đối với các công ty vận tải
ô-tô, đường thủy và đường sắt.
1. Chỉ tiêu khối lượng vận
chuyển và khối lượng luân chuyển an toàn hành hóa và hành khách.
Vận chuyển và luân chuyển
hàng hóa, hành khách an toàn là không để xẩy ra an toàn là không để xẩy ra tai
nạn làm hư hỏng, mất mát hàng hóa, hoặc chết người. Nếu xẩy ra tai nạn như trên
thì không được công nhận hoàn thành kế hoạch, mặc dầu về khối lượng vận chuyển
và luân chuyển có hoàn thành kế hoạch, hoặc hoàn thành vượt mức kế hoạch.
2. Chỉ tiêu khối lượng vận
chuyển và luân chuyển an toàn những mặt hàng chủ yếu.
Chỉ tiêu này phải tính từng mặt
hàng cụ thể. Khi tất cả các mặt hàng đều hoàn thành kế hoạch mới được coi là
hoàn thành chỉ tiêu này.
Trường hợp mặt hàng chủ yếu
không có đủ để vận chuyển theo mức kế hoạch đã định, nếu được cơ quan chủ hàng
xác nhận thì vẫn được xét duyệt là hoàn thành chỉ tiêu này (mặt hàng vận chuyển
chủ yếu do Bộ chủ quản và Sở, Ty chủ quản quy định các đơn vị cơ sở).
3. Chỉ tiêu năng suất lao động.
Chỉ tính cho một công nhân viên
công tác vận doanh và tính theo tấn/cây số (và người/cây số) như trong chế độ
đã quy định (quyết định số 80-TKVT ngày 14-02-1963 của liên Bộ iao thông vận tải
và Tổng cục Thống kê ban hành).
4. Chỉ tiêu giá thành toàn bộ
về vận tải.
Chỉ tiêu này phân tích và
đánh giá ba mặt sau:
- Thực hiện kế hoạch giá thành
đơn vị trên 1000 tấn/cây số tính đồi;
- Thực hiện kế hoạch hạ giá
thành;
- Số tiền tuyệt đối đã tiết kiệm
được so với kế hoạch.
5. Nộp tích lũy và các khoản
phải nộp khác.
Bao gồm đủ các khoản lợi nhuận,
nộp thuế và nộp khấu hao cơ bản. Phương pháp tính toán như đã quy định ở điều 2
phần I của thông tư này.
F. Đối với các công ty, cửa
hàng thương nghiệp.
1. Chỉ tiêu tổng doanh số mua
vào bán ra.
Cả hai phần mua vào và bán
ra đều hoàn thành kế hoạch mới coi là hoàn thành chỉ tiêu này.
2. Số lượng (hoặc trọng lượng)
mua vào; bán ra những mặt hàng chủ yếu.
Do tính chất và đặc điểm của chế
độ phân phối xã hội chủ nghĩa nên chỉ tiêu số lượng (hoặc trọng lượng) mua vào
bán ra những mặt hàng chủ yếu (nhất là những mặt hàng cần quản lý chặt chẽ) phải
được Bộ chủ quản cùng Ủy ban Kế hoạch Nhà nước quy định loại nào vượt kế hoạch,
loại nào không được vượt kế hoạch.
Trường hợp chưa quy định, thì
đơn vị cơ sở phải báo cáo và yêu cầu Bộ chủ quản, hoặc Ủy ban Kế hoạch địa
phương quy định cho rõ ràng trước khi xét duyệt từng năm. Riêng trong năm 1964
nếu Bộ chủ quản hoặc Ủy ban Kế hoạch địa phương chưa kịp quy định thì các cơ
quan xét duyệt kế hoạch tạm thời nghiên cứu quyết định.
Danh mục những mặt hàng chủ yếu
theo như danh mục do liên Bộ Nội thương và Tổng cục Thống kê quy định hiện
hành. Đối với các đơn vị cơ sở thương nghiệp khác (ngoài hệ thống Bộ Nội
thương) do Bộ chủ quản và Sở, ty thương nghiệp quy định.
3. Chỉ tiêu phí lưu thông.
Khi xét duyệt phải xét thấy
trên các mặt sau:
- Tỷ lệ phí lưu thông thực hiện
so với doanh số;
- Tổng phí tổn lưu thông qua đã
thực hiện được (nhất là những bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phí tổn lưu
thông);
- Tỷ lệ hạ phí lưu thông so với
kế hoạch;
- Số tiền đã tiết kiệm được do hạ
phí lưu thông (trong điều kiện hiện nay phân bổ phí lưu thông từng nhóm hàng, mặt
hàng còn khó khăn, nên tạm thời chưa tính toán xét duyệt chỉ tiêu này).
Khí xét duyệt, nếu một trong bốn mặt
đã nêu trên không hoàn thành, thì chỉ tiêu này coi như chưa hoàn thành.
Trường hợp có những yếu tố khách
quan làm tăng hoặc giảm phí lưu thông hàng hóa, khi xét duyệt được loại trừ các
yếu tố đó.
Chú thích: Đối với một
công ty thương nghiệp có hệ thống bán buôn, bán lẻ riêng, khi tính toán phí lưu
thông và doanh số, đều phải tính từng phần bán buôn riêng, phần bản lẻ riêng.
4. Chỉ tiêu năng suất lao động
một công nhân viên.
Chỉ tính năng suất lao động một
công nhân viên trong kinh doanh thương nghiệp, không tính nhân viên ngoài
thương nghiệp và các nhân viên phục vụ khác như cấp dưỡng, giữ trẻ…
5. Chỉ tiêu vòng quay vốn lưu
động.
Trong thực tế, hiện nay nhiều
đơn vị kinh doanh thương nghiệp chưa có kế hoạch bằng văn bản về chỉ tiêu này,
đơn vị cơ sở phải yêu cầu cơ quan giao kế hoạch xác định và chính thức giao kế
hoạch.
Trường hợp trong năm 1964 cơ
quan kế hoạch chưa chuẩn bị kịp, thì có thể tạm thời không xét duyệt chỉ tiêu
này.
IV. TỔ CHỨC VIỆC XÉT DUYỆT, CÔNG NHẬN VÀ CÔNG BỐ HOÀN
THÀNH KẾ HOẠCH.
a) Đối với xí nghiệp, công trường quan trọng (theo điểm a
điều 1, quyết định số 112-CP)
Đối các đơn vị này thì trong điểm
3 phần III thông tư số 71-TTg ngày 22-07-1964 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định
rõ.
Vì vậy các đơn vị trên, khi sắp
hoàn thành kế hoạch thì báo cho Tổng cục Thống kê bà Bộ chủ quản biết, Tổng cục
Thống kê sẽ cùng Bộ chủ quản, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Văn phòng Phủ Thủ tướng
và Bộ Tài chính xác minh tình hình, thống nhất ý kiến và Tổng cục Thống kê sẽ
làm báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ xét duyệt, công nhận.
b) Đối với các đơn vị cơ sở sản
xuất, kinh doanh thuộc Bộ và các cơ quan chủ quản ở Trung ương quản lý (theo điểm
b điều 1 quyết định số 112-CP).
Đối với các đơn vị này, thì
trong điều 2 quyết định số 112-CP và điểm 4 phần III thông tư số 71-TTg đã quy
định rõ.
Để thi hành nhiệm vụ trên, Tổng
cục Thống kê đề nghị cụ thể với các Bộ (các ngành ở trung ương) như sau:
Ở các Bộ (và các ngành ở trung
ương) thì tổ chức thống kê của Bộ là cơ quan chịu trách nhiệm chính để giúp thủ
trưởng xét duyệt việc hoàn thành kế hoạch.
Các đơn vị cơ sở, khi sắp hoàn
thành kế hoạch báo cho tổ chức thống kê của Bộ biết. Tổ chức thống kê của Bộ sẽ
cùng đại diện Vụ kế hoạch, Vụ Tài vụ (và đại diện Cục Quản lý nếi có) kiểm tra
ngay số liệu và tình hình. Sau đó tổ chức thống kê của Bộ sẽ làm báo cáo trình
ông Bộ trưởng (hoặc thủ trưởng) để xét duyệt.
Khi ông Bộ trưởng (hoặc thủ trưởng)
đã có ý kiến xét duyệt, yêu cầu gửi ngay cho ông Tổng cục Trưởng Tổng cục Thống
kê để tham gia ý kiến. Sau khi đã nhất trí, ông Bộ trưởng (hoặc thủ trưởng) sẽ
công bố cho các đơn vị cơ sở.
c) Đối với các đơn vị sản xuất,
kinh doanh thuộc tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương quản lý (theo điểm c
điều 1 quyết định số 112-CP).
Chi cục Thống kê tỉnh, thành phố
là cơ quan chịu trách nhiệm chính giúp Ủy ban hành chính xét duyệt hoàn thành kế
hoạch.
Các đơn vị trên, mỗi khi sắp
hoàn thành kế hoạch phải báo cho cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp và Chi cục
Thống kê biết.
Chi cục Thống kê sẽ cùng đại diện
cơ quan kế hoạch, cơ quan chủ quản và đại diện cơ quan tài chính kiểm tra tình
hình và số liệu, lập biên bản. Chi cục Thống kê sẽ làm báo cáo trình Ủy ban
hành chính xét duyệt, công nhận và công bố.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC CÓ LIÊN QUAN.
1. Để cơ quan thống kê các ngành, các cấp
có đủ tình hình giúp cơ quan lãnh đạo xét duyệt hoàn thành kế hoạch được nhanh
chóng, yêu cầu các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
đôn đốc các đơn vị cơ sở sản xuất, kinh doanh trực thuộc mình quản lý chấp hành
nghiêm chỉnh chế độ báo cáo thống kê đã quy định.
2. Đối với các kế hoạch
tháng, quý, 6 tháng, 9 tháng của các đơn vị cơ sở, không áp dụng chế độ xét duyệt,
công nhận và công bố hoàn thành kế hoạch này của Hội đồng Chính phủ. Để đảm bảo
công tác động viên tinh thần thi đua của cán bộ, nhân viên trong đơn vị, mỗi
khi đơn vị nào hoàn thành kế hoạch ngắn kỳ đó, thủ trưởng đơn vị có thể dùng
hình thức “đưa tin” để các cơ quan báo chí, đài phát thanh có tài liệu tuyên
truyền. Trước khi đưa tin phải có sự đồng ý của cơ quan thống kê Bộ (nếu là đơn
vị thuộc Bộ và cơ quan trung ương quản lý) và được sự đồng ý của Chi cục Thống
kê (nếu là đơn vị thuộc Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố quản lý).
3. Tổng cục Thống kê, các
Bộ (hoặc cơ quan chủ quản ở trung ương) và Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố khi
ra công bố hoàn thành kế hoạch hàng năm cho các đơn vị, thì đồng gửi cho các cơ
quan báo chí, đài phát thanh cung cấp để kịp thời tuyên truyền; gửi cho hội đồng
thi đua cùng cấp để có cơ sở xét tặng thưởng thi đua; gửi cho cơ quan tài chính
cùng cấp để quyết định việc trích quỹ xí nghiệp cho các đơn vị cơ sở.
4. Hàng năm, các Bộ (và
các cơ quan chủ quản ở trung ương) sẽ báo cho Tổng cục Thống kê biết kết quả và
tình hình xét duyệt, công nhận và công bố hoàn thành kế hoạch cho các đơn vị
thuộc Bộ quản lý.
Các Chi cục Thống kê sẽ báo cáo
lên Tổng cục Thống kê biết kết quả và tình hình xét duyệt, công nhận và công bố
hoàn thành kế hoạch các đơn vị do địa phương quản lý để tổng hợp báo cáo lên Hội
đồng Chính phủ, theo như điều 2 quyết định số 112-CP ngày 22-07-1964 của Hội đồng
Chính phủ.
5. Các Bộ (và cơ quan
ngang Bộ), các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo các
nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, thông tư của Thủ tướng Chính phủ và bản hướng
dẫn này hướng dẫn các đơn vị, cơ sở thi hành. Nếu thấy điểm nào chưa phù hợp,
yêu cầu cho Tổng cục Thống kê biết để nghiên cứu bổ sung.
6. Các văn bản quy định
trước đây của Tổng cục Thống kê hướng dẫn về việc xét duyệt, công nhận và công
bố hoàn thành kế hoạch của các đơn vị cơ sở trái với văn bản của Nhà nước và
thông tư này đều bãi bỏ.
|
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Đặng Thí
|