BỘ LAO ĐỘNG
********
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 6-LĐ/TT
|
Hà Nội, ngày 28
tháng 2 năm 1975
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 6-LĐ/TT NGÀY 28 THÁNG 2 NĂM 1975 HƯỚNG DẪN
VIỆC LÀM VÀ SỬ DỤNG SỔ LAO ĐỘNG CHO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC THEO NGHỊ ĐỊNH
SỐ 97-CP NGÀY 2 THÁNG 5 NĂM 1974 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Thi hành Nghị định số 97-CP ngày
2 tháng 5 năm 1974 và Nghị quyết của Hội nghị thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày
5-12-1974 (thông báo số 86-TB ngày 20-12-1974 của Phủ Thủ tướng) về đăng ký lao
động làm sổ lao động và cấp thẻ lao động.
Sau khi trao đổi ý kiến với Tổng
công đoàn, Bộ Lao động hướng dẫn việc làm sổ lao động cho công nhân, viên chức
trong các xí nghiệp cơ quan Nhà nước như sau:
I- MỤC ĐÍCH,
YÊU CẦU
Làm sổ lao động cho công nhân,
viên chức nhằm tăng cường quản lý lao động, tăng cường kỷ luật lao động ở từng
đơn vị cơ quan, xí nghiệp, thực hiện chế độ ghi chép quá trình làm việc, trình
độ nghề nghiệp, năng lực công tác, tình hình sức khoẻ và sự cống hiến của mỗi
người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Qua đó, cơ quan quản lý thực
hiện tốt chính sách sử dụng, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội, phúc lợi tập thể...
đối với người lao động.
Đó cũng chính là điều mong muốn
của mỗi người lao động. Vì vậy, làm sổ lao động còn động viên được mọi người
hăng hái thi đua lao động sản xuất, giữ gìn kỷ luật lao động, trau dồi nghề
nghiệp, nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
II- ĐỐI TƯỢNG
VÀ PHẠM VI LÀM SỔ LAO ĐỘNG
Nhà nước tiến hành làm sổ lao động
cho những người lao động chân tay và lao động trí óc, sản xuất và phục vụ sản
xuất ở khu vực Nhà nước, khu vực tập thể.
Thường vụ Hội đồng Chính phủ quyết
định làm sổ lao động trước tiên cho công nhân, viên chức Nhà nước. Cụ thể là:
1- Tất cả công nhân, viên chức
làm việc lâu dài trong khu vực Nhà nước, kể cả học sinh sơ cấp, công nhân kỹ
thuật, trung học và đại học ra trường đã được phân phối về tập sự ở các xí nghiệp,
cơ quan Nhà nước.
2- Công nhân viên quốc phòng và
công an đang làm việc tại các xí nghiệp, cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công
an và hưởng chế dộ tiền lương như công nhân, viên chức Nhà nước.
Những trường hợp sau đây chưa
làm sổ lao động:
- Bộ đội và công an tại ngũ;
- Những người làm theo chế độ hợp
đồng có thời hạn (tạm thời, thời vụ);
- Tất cả học sinh (sơ cấp, công
nhân kỹ thuật, trung học và đại học) đang trong thời gian học tại trường.
III- CÁCH GHI
CHÉP SỔ LAO ĐỘNG
Sổ lao động do Bộ Lao động ban
hành thống nhất, với quy cách dài 18 cm, rộng 13 cm, gồm 20 trang (đánh số từ 1
đến 20); có dán ảnh đóng dấu nổi và có ký hiệu riêng cho từng địa phương.
Cách ghi chép như sau:
1- Mỗi người được cấp sổ lao động
phải viết một tờ khai theo mẫu thống nhất (nội dung đúng như nội dung sổ lao động).
Lời khai phải rõ ràng, đầy đủ, đúng sự thật và được thủ trưởng xí nghiệp, cơ
quan xác nhận (ký tên đóng dấu).
2- Cơ sở để ghi chép vào sổ lao
động ban đầu là tờ khai của người được cấp sổ. Việc bổ sung những thay đổi sau
này phải căn cứ vào các giấy tờ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã xác nhận
rõ ràng, sẽ hướng dẫn cụ thể ở điểm 4 dưới đây.
3- Chỉ có cơ quan trực tiếp quản
lý sổ lao động mới được ghi vào sổ và người ký tên hoàn toàn chịu trách nhiệm
việc ghi chép đó. Mỗi lần ghi bổ sung vào sổ lao động phải báo trước cho người
có sổ biết và xem lại. nếu có điều gì thấy chưa đúng, người đó có quyền đề nghị
cơ quan, xí nghiệp sửa lại trước khi chép vào sổ.
Sổ lao động phải được ghi chép cẩn
thận, cấm tẩy xoá và ghi bằng loại mực tốt lâu phai.
4- Một số điểm cần thiết trong
khi khai và ghi vào sổ lao động:
a) Phần đầu xác nhận đúng người
có sổ lao động để tránh nhầm lẫn hoặc cho mượn. Khai đúng theo giấy chứng minh,
căn cước, khai sinh, sổ hộ khẩu, họ tên phải viết chữ đậm; không viết tắt.
b) Phần quá trình làm việc (trước
và sau khi cấp sổ lao động ) ghi đúng quá trình lao động liên tục của ngươì lao
động từ khi trưởng thành; nhằm thấy rõ sự biến động, tiến bộ và sự cống hiến của
mỗi người; để biết thâm niên công tác, ngành nghề, thực hiện chế độ bảo hiểm xã
hội v.v....
Khi khai và ghi phần này cần
chia ra 2 thời kỳ: trước khi cấp sổ, phải đối chiếu với hồ sơ, giấy tờ sẵn có;
sau khi cấp sổ mỗi lần bổ sung, nhất thiết phải căn cứ vào quyết định chính thức
của cơ quan, xí nghiệp.
Cột 1: khai ngày, tháng, năm bắt
đầu được tuyển dụng, đề bạt, nâng bậc v.v...
Cột 2: Khai ngày, tháng năm
thuyên chuyển công tác, thôi việc, về hưu, mất sức,
Cột 3: Ghi số văn bản và tên cơ
quan ra quyết định.
Cột 4: Ghi rõ nội dung của quyết
định, ví dụ: tuyển dụng, nâng bậc, đề bạt hoặc cho thôi việc v.v...
Cột 5: Khai rõ nghề nghiệp, chức
vụ đã qua và hiện đang làm, ví dụ: lái xe (vận tải 5 tấn, xe khách, xe con)
công nhân kỹ thuật, cơ khí, điện (đường dây, sửa chữa, quấn bô bin), trưởng
phòng (tài vụ, hành chính) v.v...
Cột 6: Khai rõ tên đơn vị (cơ
quan, xí nghiệp, hầm mỏ, công trường)... và địa phương, nơi đơn vị đóng.
Cột 8: Khai mức tiền lương chính
được xếp theo cấp bậc công việc, hay chức vụ công tác (không khai các khoản phụ
cấp ngoài lương).
Cột 9: Những thay đổi trước khi
viết tờ khai thì ghi tên thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp có; sau khi cấp sổ mỗi lần
bổ sung, thủ trưởng đơn vị phải ký tên, đóng dấu xác nhận vào sổ lao động.
c) Phần quá trình đào tạo: (về
nghề nghiệp và chính trị, văn hoá).
Ghi trình độ nghề nghiệp, văn
hoá chính trị và phướng pháp đào tạo để sử dụng hợp lý và có kế hoạch bồi dưỡng
người lao động.
Các cột trong phần này ghi đúng
theo văn bằng, giấy chứng nhận hoặc học bạ. Riêng đối với những người có trình
độ sơ cấp nghiệp vụ, kỹ thuật và văn hoá cấp I có thể ghi theo lời khai của người
có sổ.
Cột 3: khai cụ thể nghề được đào
tạo như cột 5 ở phần quá trình làm việc. Nếu học chính trị, văn hoá thì khai
tên trường, lớp, địa phương đã học.
Cột 5: Khai những trường hợp học
dở dang, chưa hết chương trình, không tốt nghiệp v.v....
d) phần tình hình sức khoẻ:
Nhằm phân công hợp lý và có biện
pháp chữa chạy cho công nhân, viên chức. Vì vậy, chỉ ghi tình hình sức khoẻ lúc
làm sổ, những bệnh kinh niên mãn tính và diễn biến nặng lên hay bớt đi theo giấy
khám bệnh, định kỳ hàng năm hay đột xuất của bệnh viện hoặc biên bản của Hội đồng
giám định y khoa khi có bệnh nghề nghiệp. Trường hợp đau ốm thông thường thì
không ghi vào sổ.
Cột 1: khai ngày, tháng, năm, mỗi
lần khám.
Cột 2: Ghi rõ xếp loại sức khoẻ
theo tiêu chuẩn quy định của Bộ Y tế hoặc chứng nhận tỷ lệ mất khả năng lao động
(do di chứng của bệnh nghề nghiệp).
Cột 3: ghi các bệnh mãn tính hoặc
tên bệnh nghề nghiệp đã được chẩn đoán rõ (không ghi các bệnh còn nghi ngờ).
Cột 4: Ghi tổng số ngày ốm phải
nghỉ công tác trong năm theo giấy đề nghị của y, bác sĩ cơ quan, xí nghiệp, bệnh
viện.
e) Phần tai nạn lao động:
Chỉ ghi những tai nạn lao động
có ảnh hưởng nhiều đến sức lao động có được trợ cấp để bố trí, sử dụng hợp lý
và thực hiện chế độ đối vơí người lao động.
Cột 1: khai ngày, tháng, năm bị
tai nạn lao động.
Cột 2: khai rõ địa điểm xảy ra
tai nạn lao động. Ví dụ: trong cơ quan, xí nghiệp hay tại cây số, số nhà, tên
đường phố...
Cột 3: Căn cứ vào biên bản của
cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn (của địa phương hay của trung ương) ghi tóm
tắt nguyên nhân bị tai nạn.
Cột 4 và 5:ghi rõ hạng thương tật
(thuộc loại tạm thời hay vĩnh viễn) tỷ lệ mất sức theoquyết định củaHội đồng
giám định y khoa hay hội đồng khám xét thương tật.
Cột 6: Ghi rõ và tóm tắt các chế
độ đã được hưỏng về tai nạn lao động như: trợ cấp một lần, tiền lương khi điều
trị, tiền trợ cấp hàng tháng...
Cột 7: ghi ngày, tháng, năm, số
quyết định hoặc chẩn đoán thương tật của Hội đồng giám định y khoa, hay hội đồng
xét thương tật và tên người ký quyết định.
g) Phần khen thưởng và kỷ luật:
Ghi những thành tích xuất sắc về
sáng kiến cải tiến kỹ thuật, vượt định mức đầu tiên tăng năng suát lao động đạt
hiệu quả công tác cao, đạt lao động tiền tiến hàng năm, chiến sĩ thi đua hoặc
anh hùng lao động nhằm thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nếu công nhân, viên chức có
thành tích xuất sắc về các mặt khác mà được tặng thưởng huy chương, huân
chương, được tuyên dương anh hùng thì cũng được ghi vào sổ lao động.
- Kỷ luật là để giáo dục, giúp đỡ
công nhân viên chức có sai phạm để sửa chữa tiến bộ. Không thành kiến, hẹp hòi
với người có khuyết điểm. Đơn vị có trách nhiệm ghi chép theo đúng những điều
hướng dẫn dưới đây:
Chỉ ghi những
kỷ luật vi phạm trong sản xuất, công tác từ hình thức hạ tầng công tác, hạ cấp
bậc kỹ thuật, điều đi làm việc khác hoặc buộc thôi việc trở lên do Hội đồng kỷ
luật đúng thành phần xét đề nghị và được thủ trưởng quyết định. Không ghi kỷ luật
Đảng và đoàn thể vào sổ lao động. Trường hợp công nhân, viên chức phạm tội hình
sự, như đánh ngưòi, cướp của, tham ô, lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc làm
hư hỏng nghiêm trọng của cải Nhà nước v.v... mà bị truy tố trước toà án và bị
phạt tù (kể cả tù treo và tù ngồi) thì ghi rõ nội dung tội trạng và mức án hoặc
hình thức kỷ luật vào sổ để tiện việc bố trí sử dụng.
Ghi các cột ở phần khen thưởng
và kỷ luật như sau:
Cột 1; Ghi ngày, tháng năm của
quyết định khen thưởng hoặc kỷ luật.
Cột 2: Ghi tóm tắt thành tích được
khen thưởng, ví dụ: vượt định mức đầu tiên, có sáng kiến phát minh gì, cải tiến
kỹ thuật cái gì.... hoặc ghi lý do bị thi hành kỷ luật như ăn cắp nguyên vật liệu
của xí nghiệp cơ quan, đánh nhau trong sản xuất, bỏ việc...
Cột 3: Ghi rõ các hình thức được
khen thưởng cũng như hình thức kỷ luật như đã nói ở điểm g trên.
Cột 4: ghi rõ số quyết định và cấp
quyết định khen thưởng hoặc thi hành kỷ luật.
IV- QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG SỔ LAO ĐỘNG
1- Sổ lao động
phải được quản lý chặt chẽ theo chế độ tài liệu mật của Nhà nước. Người có sổ
hoặc cán bộ quản lý làm mất sổ lao động phải báo cáo ngay với thủ trưởng đơn vị,
cơ quan công an và Sở, Ty lao động.
2- Nhất thiết
cơ sở phải có cán bộ thường xuyên theo dõi ghi chép bổ sung những thay đổi của
công nhân, viên chức vào sổ lao động. Riêng về khen thưởng thì mỗi năm ghi bổ
sung một lần vào tháng 12 của năm ấy, nếu có.
Trường hợp công nhân, viên chức
được điều động đi công tác nơi khác hay thôi việc, về hưu, mất sức hoặc bị chết
thì đơn vị quản lý phải bổ sung ngay và trao trả sổ cho đương sự hoặc thân nhân
người có sổ,. Người có sổ lao động và cán bộ quản lý sổ không được tự ý tẩy
xoá, thêm bớt những điều đã ghi trong sổ. Mọi tẩy xoá ở phần kỷ luật làm toàn bộ
cuốn sổ không có giá trị. Mọi điều tự ý viết thêm đều không có giá trị pháp lý.
3- Sau khi
đã hoàn thành việc đăng ký lao động, cấp sổ lao động ở các địa phương, các xí
nghiệp, cơ quan chỉ được tiếp nhận hoặc tuyển dụng ngưòi đã có sổ lao động hay
có tờ khai đăng ký lao động.
Căn cứ vào những điều ghi trong
sổ lao động, các xí nghiệp, cơ quan phải tiến hành thống kê tổng hợp báo cáo
lên Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố, các Sở, Ty lao động và Bộ, ngành chủ quản
theo đúng biểu mẫu và thời gian do Bộ Lao động và Tổng cục Thống kê hướng dẫn.
4- Sổ Lao động cấp theo Nghị định
số 7 /CP ngày 18 tháng 4 năm 1960 của Hội đồng Chính phủ được tạm thời sử dụng
cho đến khi đơn vị cấp xong sổ mới cho những người có sổ cũ.
Tất cả sổ lao động cũ (sau khi
đã đổi lấy sổ mới) và những sổ viết hỏng, các đơn vị phải nộp đủ số lượng về Sở,
Ty lao động tỉnh, thành phố để lập biên bản huỷ bỏ. Biên bản này do một hội đồng
có đại biểu cơ quan lao động, Liên hiệp công đoàn tỉnh, công an do đại diện Uỷ
ban hành chính địa phương ký và kiểm tra, chứng kiến khi huỷ bỏ. Mọi huỷ bỏ
không theo đúng thủ tục trên đều bị coi là không hợp pháp.
5- Mỗi công nhân, viên chức chỉ
được cấp sổ một lần.
Trường hợp bị mất sổ được cơ
quan chủ quản và cơ quan công an địa phương xác nhận thì người mất sổ được Sở,
Ty Lao động xét làm lại. Sổ được làm lại có đóng dấu "Sổ làm lại" và
chỉ ghi chép lại những điều còn đủ tài liệu.
Nếu sổ bị hư hỏng, rách nát
không dùng được thì người có sổ được xin bản sao ở xí nghiệp, cơ quan nơi đang
làm việc.
6- Chi phí về làm sổ lao động
(tiền sổ và tờ khai) do ngân sách Nhà nước đài thọ, các khoản chi phí trong khi
làm sổ (hội họp, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, giấy nháp...) do cơ quan, xí
nghiệp đài thọ, tiền ảnh dán vào số lao động và tờ khai do người được làm sổ trả.
V- XỬ LÝ NHỮNG
TRƯỜNG HỢP VI PHẠM NGUYÊN TẮC VỀ CẤP PHÁP, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG SỔ LAO ĐỘNG
Người lao động, hoặc cán bộ làm
sổ và quản lý sổ lao động nếu vi phạm một trong những điểm dưới đây:
- Tuyên truyền xuyên tạc, gây
hoang mang, cản trở việc thực hiện chủ trương làm sổ; khai man, tự ý tẩy xoá,
thêm, bớt những điều đã ghi trong sổ lao động; cho người khác mượn sổ không
đúng nguyên tắc; mua bán sổ, làm sổ giả; cấp sổ gian, hối lộ; lấy cắp sổ của
người khác để làm những việc bất chính v.v... thì tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ mà xử
lý một trong bốn hình thức kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo, hạ tầng công tác,
đến buộc thôi việc theo Nghị định số 195/CP ngày 31tháng 1 năm 1964 của Hội đồng
Chính phủ hoặc bị truy tố trước pháp luật, xử lý theo sắc lệnh số 267-SL ngày
15-6-1956 về trừng trị những người gây thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, làm
cản trở việc thực hiện chính sách và kế hoạch của Nhà nước.
Người nhận hối lộ và người đưa
hôi lộ sẽ bị trừng trị theo sắc lệnh số 223-SL ngày 16-11-1946 về tội hối lộ.
VI- TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
1- Công tác làm sổ lao động thực
chất là quản lý nhân sự, nay tiến hành với một quy mô rộng, phải hoàn thành
trong một thời gian ngắn (khu vực Nhà nước phải xong trong năm 1975). Do đó các
ngành, các địa phương, từng cơ sở phải khẩn trương, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện
cần thiết về vật chất, bồi dưỡng cán bộ, củng cố tổ chức... thì mới đảm bảo yêu
cầu và hoàn thành đúng thời gian Chính phủ đã quy định.
Trước mắt, các Bộ ngành ở trung
ương, Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành phố chỉ đạo và gấp rút chuẩn bị điều kiện
làm sổ lao động cho công nhân, viên chức ở thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập
trung, ngành kinh tế quan trọng và các cơ sở sản xuất lớn (Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Hà, Quảng Ninh, Khu gang thép Thái Nguyên, khu công nghiệp Việt Trì... các
ngành giao thông vận tải, xây dựng, điện và than, cơ khí luyện kim, công nghiệp
nhẹ, lương thực thực phẩm...) sẽ hoàn thành vào tháng 6 năm 1975.
Đến cuối năm 1975 về căn bản
hoàn thành việc làm sổ lao động cho tất cả công nhân, viên chức trên toàn miền
Bắc, bao gồm cả việc cấp sổ mới, đổi sổ cũ.
2- Các địa phương và các đơn vị
cơ sở cần sơ kết kiểm điểm, đánh giá ưu, khuyết điểm việc ghi chép theo dõi, quản
lý, sử dụng sổ lao động trước đây; tiến hành phổ biến mục đích và yêu cầu, nội
dung kế hoạch tiến hành làm sổ mới để các cơ quan, xí nghiệp công nhân, viên chức
quán triệt ý nghĩa, mục đích nội dung, tự nguyện, tự giác chấp hành nghiêm chỉnh.
Đồng thời gấp rút chuẩn bị đầy đủ
các điều kiện cần thiết trước khi tiến hành như: Sổ lao động, tờ khai (Bộ Lao động
phân phối); phim chụp ảnh và giấy in ảnh (từng địa phương giao cho cơ quan văn
hoá lo). Nếu thiếu phim, giấy ảnh, công nhân, viên chức tận dụng phim cũ ảnh cũ
(chụp làm chứng minh thư, căn cước). Người nào chưa có phim, giấy cũng vẫn tiến
hành làm sổ, còn ảnh sẽ làm vào năm 1976.
Phải đặc biệt quan tâm bồi dưỡng
lực lượng cán bộ làm sổ lao động để nắm vững nguyên tắc làm tờ khai, cách ghi
chép bổ sung, quản lý và sử dụng sổ lao động.
Các tổ chức các nhóm, tổ công
tác nghiệp vụ:
- Hướng dẫn kê khai và duyệt tờ
khai;
- Viết sạch vào sổ lao động.
3- Dựa vào kế hoạch chung của Bộ
Lao động, các ngành, các địa phương cần đề ra kế hoạch cụ thể của từng nơi,
nhưng phải đảm bảo yêu cầu và thời gian đã quy định, đồng thời tránh làm ảnh hưỏng
đến kế hoạch sản xuất và công tác của các đơn vị cơ sở.
Mỗi địa phương, mỗi đơn vị khi
tiến hành làm sổ phải chọn một vài cơ sở làm thí điểm, rút kinh nghiệm chỉ đạo
chung.
4- Uỷ ban hành chính tỉnh, thành
phố chịu trách nhiệm chỉ dạo thực hiện việc cấp sổ lao động trong địa phương (kể
cả cơ quan xí nghiệp trực thuộc trung ương quản lý) và uỷ quyền cho thủ trưởng
Sở, Ty Lao động thực hiện việc làm sổ lao động.
5- Các Sở, Ty lao động có nhiệm
vụ:
Giúp Uỷ ban hành chính tỉnh,
thành phố lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện tốt công tác cấp sổ lao động trong địa
phương mình, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, phát hiện và uốn nắn kịp thời những
thiếu sót, lệch lạc về nghiệp vụ ghi chép, quản lý và sử dụng sổ lao động ở các
đơn vị cơ sở.
Quản lý tờ khai của công nhân,
viên chức để cấp lại sổ khi cần thiết.
Đề xuất ý kiến với Bộ Lao động,
Uỷ ban hành chính địa phương để có chủ trương, biện pháp cụ thể nhằm phát huy
tác dụng thiết thực của sổ lao động.
6- Thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp
phối hợp với công đoàn cơ sở chịu trách nhiệm toàn bộ việc cấp sổ lao động cho
tất cả công nhân, viên chức trong đơn vị mình và chịu sự kiểm tra, đôn đốc, hướng
dẫn của cơ quan lao động địa phương. Thủ trưởng cơ quan xí nghiệp có trách nhiệm
bảo quản và sử dụng tốt sổ lao động, thu ngay sổ lao động khi nhận người làm,
trả nhanh sổ cho người lao động khi họ chuyển nơi làm việc, không để họ tốn thì
giờ đi lại.
Để thực hiện tốt chủ trương làm
sổ lao động của Hội đồng Chính phủ, Bộ Lao động đề nghị các Bộ Y tế, Nội vụ, Tổng
cục thống kê và các Bộ ngành quản lý, theo chức năng và nhiệm vụ của mình, có kế
hoạch hướng dẫn các cơ quan thuộc ngành ở các địa phương và các đơn vị trực thuộc
phối hợp thi hành. Đề nghị Tổng công đoàn Việt Nam có chỉ thị cho công đoàn
ngành dọc và các cấp công đoàn phối hợp với chính quyền, động viên công nhân,
viên chức thực hiện tốt công tác làm sổ lao động.
Thông tư này bãi bỏ Thông tư số
10-LĐ/TT ngày 16-5-1960, Thông tư số 13 LĐ/TT ngày 1-7-1961 và các văn bản hướng
dẫn cấp sổ lao động trước đây của Bộ Lao động.