BỘ
LAO ĐỘNG
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
33-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 10 năm 1960
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 33-LĐ/TT NGÀY 17 THÁNG 10 NĂM 1960 HƯỚNG
DẪN VÀ QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH BẢN ĐIỀU LỆ TẠM THỜI QUY ĐỊNH VIỆC TUYỂN DỤNG
VÀ SỬ DỤNG NHÂN CÔNG Ở NÔNG THÔN CỦA CHÍNH PHỦ
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính
gửi:
|
- Các Bộ, ngành, đoàn thể
Trung ương
- Các Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh
- Các Sở, Ty, Phòng Lao động
|
Ngày 9 tháng 9 năm 1960, Hội đồng
Chính phủ đã ra Nghị định số 36/CP ban hành bản Điều lệ tạm thời quy định việc
tuyển dụng và sử dụng nhân công ở nông thôn. Bộ Lao động ra thông tư này để hướng
dẫn và quy định chi tiết thi hành:
I. MỤC ĐÍCH,
Ý NGHĨA
Để thực hiện đường lối chung của
miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ ba đã ghi một trong những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm (1961 -
1965) lần thứ nhất là: "Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển công nghiệp thực phẩm
và công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc
doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên, biến nước ta
thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa".
Thực hiện nhiệm vụ đó, không những
sản xuất nông nghiệp sẽ thu hút một lực lượng nhân công rất lớn, mà sản xuất
công nghiệp, kiến thiết cơ bản và các ngành kinh tế khác cũng cần bổ sung một lực
lượng nhân công khá lớn. Để thoả mãn nhu cầu nhân công cho sản xuất công nghiệp,
kiến thiết cơ bản và các ngành kinh tế khác, không những ta phải tận dụng khả
năng nhân công ở các thành phố, mà chủ yếu phải dựa vào lực lượng nhân công to
lớn ở nông thôn.
Ở miền Bắc nước ta, dân số phân
bổ không đều. Miền đồng bằng ruộng đất ít, dân thì đông, nguồn nhân công rất dồi
dào ; miền trung du và miền núi đất rộng, tài nguyên rất phong phú nhưng dân lại
ít, nhân công rất khan hiếm. Để tận dụng sức lao động dồi dào ở miền đồng bằng
vào công cuộc phát triển kinh tế, thì ngoài việc phát triển nông nghiệp toàn diện
để thu hút sức lao động thừa, Nhà nước còn phải có biện pháp điều chỉnh một phần
nhân công ở nông thôn bổ sung cho sản xuất công nghiệp, kiến thiết cơ bản
v.v... và chuyển một phần nhân công ở miền đồng bằng lên khai thác ở miền trung
du và miền núi.
Việc điều chỉnh một phần nhân
công ở nông thôn cho sản xuất công nghiệp, kiến thiết cơ bản và các ngành kinh
tế khác là một biện pháp quan trọng, không những để thoả mãn nhu cầu nhân công
cho công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc mà còn có tác dụng
tăng thêm việc làm, nâng cao đời sống cho nông dân lao động, tạo điều kiện thuận
lợi cho nông nghiệp phát triển. Hơn nữa, hiện nay ở nông thôn phong trào sản xuất
nông nghiệp toàn diện và hợp tác hoá đang phát triển mạnh mẽ, phong trào cải tiến
kỹ thuật, bước đầu cơ giới hoá và công cuộc thuỷ lợi cũng đang được đẩy mạnh.
Nền kinh tế ở miền Bắc phát triển
có kế hoạch và cân đối, do đó sức lao động ở nông thôn ; Nhà nước cần phải điều
hoà, phân phối, sử dụng có kế hoạch và hợp lý vào công cuộc phát triển các
ngành kinh tế quốc dân ; việc tuyển dụng nhân công của các ngành phải có sự quản
lý thống nhất của Nhà nước.
Vì vậy, Chính phủ đã ban hành bản
Điều lệ tạm thời quy định việc tuyển dụng và sử dụng nhân công ở nông thôn với
mục đích : tăng cường quản lý việc tuyển dụng và sử dụng nhân công nhằm điều
hoà, sử dụng hợp lý các nguồn nhân công ở nông thôn để phát triển nông nghiệp
toàn diện, đồng thời đảm bảo nhu cầu nhân công cho sản xuất công nghiệp, kiến
thiết cơ bản và các ngành kinh tế khác. Mặt khác việc quy định đó cũng nhằm giải
quyết công ăn việc làm cho những người thiếu việc, góp phần nâng cao đời sống của
nhân dân lao động.
II. NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT VIỆC QUẢN LÝ, ĐIỀU HOÀ PHÂN PHỐI NHÂN CÔNG
Ở Điều 1 trong bản Điều lệ,
Chính phủ đã quy định "Thống nhất việc quản lý, điều hoà phân phối các nguồn
nhân công ở nông thôn theo kế hoạch Nhà nước vào Bộ Lao động và Uỷ ban hành
chính khu, thành, tỉnh", Bộ Lao động giải thích rõ như sau:
Trước đây, để thực hiện kế hoạch
khôi phục và bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá, Chính phủ đã giao cho Bộ
Lao động và Uỷ ban hành chính các cấp nhiệm vụ : quản lý, điều hoà, phân phối
nhân công cho các ngành kinh tế và đã quy định cho các ngành cần tuyển dụng
nhân công đều phải qua Bộ Lao động và Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh phân
phối. Mặt khác Chính phủ cũng đã ban hành các thể lệ, nguyên tắc, thủ tục tuyển
dụng và sử dụng nhân công. Nhờ sự cố gắng của Uỷ ban hành chính các cấp, cơ
quan Lao động và các ngành nên việc điều hoà phân phối nhân công trong thời
gian qua, về căn bản đã đảm bảo nhu cầu nhân công, hoàn thành thắng lợi kế hoạch
Nhà nước, giải quyết được nạn thất nghiệp ở các thành phố và tăng thêm việc làm
cho một số nông dân ở những vùng ruộng đất ít, gặp thiên tai đời sống thấp.
Song việc thực hiện nhiệm vụ và
những điều quy định của Chính phủ, của Uỷ ban hành chính các cấp, ngành Lao động
và các ngành sử dụng còn nhiều thiếu sót:
- Về phía ngành sử dụng, tình trạng
tuyển dụng nhân công thiếu kế hoạch, tự ý tuyển dụng nhân công nhất là nhân
công ở nông thôn còn phổ biến, sử dụng nhân công còn lãng phí nghiêm trọng. Về
phía Uỷ ban hành hcính và cơ quan Lao động nhiều khi cũng chưa đảm bảo cung cấp
nhân công đúng yêu cầu và thời gian cho các ngành sử dụng. Do đó từng nơi, từng
lúc đã ảnh hưởng không tốt tới sản xuất nông nghiệp, phong trào hợp tác hoá, việc
giải quyết công ăn việc làm cho những người lao động thiếu việc và việc thực hiện
kế hoạch Nhà nước của một số ngành. Những phần tử xấu, địa chủ trốn cải tạo lao
động trong sản xuất nông nghiệp lợi dụng sơ hở chui vào các cơ sở sản xuất của
Nhà nước.
Vì vậy, Chính phủ quy định
nguyên tắc thống nhất việc quản lý, điều hoà phân phối nhân công ở nông thôn
theo kế hoạch Nhà nước và Bộ Lao động và Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh là
nhằm: khắc phục những thiếu sót trên, để cao trách nhiệm của cơ quan quản lý điều
hoà, phân phối nhân công và các ngành sử dụng nhân công. Về phía Bộ Lao động và
Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh là cơ quan thống nhất việc điều hoà phân phối
nhân công phải căn cứ vào yêu cầu nhân công của kế hoạch Nhà nước và khả năng
nhân công ở nông thôn cũng như ở thành phố mà tìm mọi biện pháp đảm bảo nhu cầu
nhân công cho các ngành sử dụng. Về phía các ngành sử dụng không phân biệt thuộc
khu vực sản xuất hoặc khu vực hành chính sự nghiệp cần tuyển dụng, sử dụng nhân
công và tuyển sinh, thanh niên, học sinh đã thôi học ở nông thôn cũng như ở
thành phố để vào làm việc ở các cơ quan, các xí nghiệp, doanh nghiệp, công,
nông, lâm trường v.v... hoặc để tạo công nhân, nhân viên kỹ thuật đều phải có kế
hoạch và do sự phân phối thống nhất của Bộ Lao động và Uỷ ban hành chính khu,
thành, tỉnh.
III. TRÁCH
NHIỆM UỶ BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP
Ở Điều 2 trong bản Điều lệ,
Chính phủ đã quy định trách nhiệm của Uỷ ban hành chính các cấp trong việc quản
lý điều hoà phân phối nhân công. Bộ Lao động giải thích và quy định chi tiết
như sau:
A. UỶ BAN HÀNH CHÍNH KHU, THÀNH,
TỈNH:
- Lập kế hoạch nhân công cho kế
hoạch địa phương và quản lý khả năng nhân công trong địa phương.
- Đảm bảo cung cấp nhân công cho
kế hoạch Trung ương do Bộ Lao động giao và cho kế hoạch địa phương: Căn cứ nhiệm
vụ và tình hình nhân công trong địa phương mà lập kế hoạch cân đối sức lao động
và phân phối nhiệm vụ cung cấp nhân công cho các huyện, quận, châu. Đồng thời đề
ra những biện pháp hướng dẫn các huyện, châu, quận, đảm bảo cung cấp nhân công
cho các ngành.
- Hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi
việc thi hành chính sách, thể lệ tuyển dụng và sử dụng nhân công của Nhà nước
trong các ngành, các xí nghiệp, công trường v.v... ở địa phương kể cả các cơ sở
thuộc kế hoạch Trung ương.
- Được quyền phân phối nhân công
cho các yêu cầu đột xuất ngoài kế hoạch của các ngành thuộc kế hoạch địa phương
và những yêu cầu đột xuất cấp bách ngoài kế hoạch của các ngành, các xí nghiệp,
công trường... thuộc kế hoạch Trung ương ở tại địa phương cần tuyển dụng nhân
công làm tạm thời trong một thời gian ngắn để làm những công việc như: chống
thiên tai, bão lụt, hoả hoạn, vận chuyển gấp hàng hoá, nguyên vật liệu v.v...
Trường hợp khi các khu, thành, tỉnh
lập kế hoạch cân đối sức lao động, sau khi đã tận dụng khả năng nhân công của địa
phương mà vẫn không đủ để cung cấp cho các ngành, được đề nghị Bộ Lao động phân
phối, cung cấp nhân công ở địa phương khác tới.
Các Sở, Ty, phòng Lao động là cơ
quan chịu trách nhiệm trước Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh thực hiện các
nhiệm vụ trên.
B. UỶ BAN HÀNH CHÍNH HUYỆN,
CHÂU, QUẬN:
- Lập kế hoạch nhân công cho kế
hoạch địa phương và quản lý khả năng nhân công trong địa phương.
- Căn cứ vào nhiệm vụ cung cấp
nhân công do Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh giao cho, nhu cầu nhân công cho
kế hoạch địa phương và tình hình nhân công trong địa phương mà lập kế hoạch
phân phối giao nhiệm vụ cung cấp nhân công cho các xã. Đồng thời hướng dẫn, đôn
đốc các xã đảm bảo cung cấp nhân công cho các ngành sử dụng và đảm bảo thực hiện
chính sách, thể lệ tuyển dụng của Nhà nước.
- Được quyền phân phối nhân công
cho các yêu cầu đột xuất cấp bách của các ngành, các xí nghiệp, công trường ở tại
địa phương theo sự phân cấp của Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh.
C. UỶ BAN HÀNH CHÍNH XÃ:
Uỷ ban hành chính xã là đơn vị
trực tiếp quản lý các nguồn nhân công và văn cứ vào tình hình sản xuất nông
nghiệp mà phân phối sức lao động cho hợp lý vào sản xuất và mọi công tác của địa
phương; đồng thời là đơn vị trực tiếp tổ chức vận động giáo dục nhân công, đảm
bảo cung cấp cho các ngành tuyển dụng. Vì vậy nhiệm vụ cụ thể là:
- Dựa vào các hợp tác xã mà tổ
chức quản lý khả năng nhân công (thợ và lao động) trong địa phương bằng các biện
pháp tổ chức các tổ thợ, tính toán sức lao động thừa của nông dân v.v...
- Căn cứ vào nhiệm vụ cung cấp
nhân công mà Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận giao cho và kế hoạch lao động
sản xuất của các hợp tác xã mà bố trí giới thiệu nhân công đi làm, đảm bảo đúng
yêu cầu (số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn) và thời gian cho các ngành, các xí
nghiệp, công trường...
- Phối hợp với các đoàn thể tiến
hành việc giáo dục, động viên nhân công hăng hái đi làm và làm tròn nhiệm vụ
trên các xí nghiệp, công trường...
- Được quyền phân phối nhân công
cho các yêu cầu đột xuất cấp bách để chống thiên tai: bão lụt, hoả hoạn của các
xí nghiệp, công trường... ở tại địa phương cần tuyển nhân công làm trong 5, 3
ngày, nhưng sau đó phải báo cáo cho Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận biết.
Nói chung Uỷ ban hành chính và cơ
quan Lao động các cấp có trách nhiệm đảm bảo cung cấp nhân công đúng yêu cầu và
thời gian cho các ngành sử dụng theo kế hoạch phân phối của Bộ Lao động. Trường
hợp đặc biệt vì những lý do khách quan mà Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận,
xã không cung cấp đủ số nhân công cho các ngành, xí nghiệp, công trường tuyển dụng,
phải kịp thời báo cáo cho Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động khu, thành, tỉnh
để kịp thời phân phối nơi khác. Nếu Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động khu,
thành, tỉnh sau khi đã tìm mọi biện pháp nhưng cũng không đảm bảo cung cấp được,
phải báo cáo cho Bộ Lao động giải quyết.
Ngoài kế hoạch phân phối nhân
công của Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động khu, thành, tỉnh, các Uỷ ban
hành chính huyện, châu, quận, xã, các Ban quản trị hợp tác xã, các đoàn thể ở
nông thôn không được tuỳ tiện giới thiệu nhân công đi tìm việc tại các thành phố
hoặc tại các xí nghiệp, công trường... Đây là biện pháp để ngăn ngừa nông dân tự
động chạy ra thành phố, tới các xí nghiệp, công trường... tìm việc, gây nên khó
khăn cho việc quản lý các thành phố, lãng phí sức lao động ảnh hưởng không tốt
tới sản xuất nông nghiệp và phong trào hợp tác hoá. Nhưng biện pháp chủ yếu là
Uỷ ban hành chính các cấp và các hợp tác xã cần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
toàn diện để sử dụng sức lao động thừa của nông dân, đồng thời cần phải tiến
hành giáo dục cho nông dân tích cực sản xuất nông nghiệp, tuân theo sự bố trí
giới thiệu đi làm có tổ chức của chính quyền và hợp tác xã, không nên tự động
chạy ra thành phố, tới các xí nghiệp, công trường... tìm việc.
Mặt khác, khi Uỷ ban hành chính
xã bố trí giới thiệu và chứng nhận giấy tờ cho nhân công đi làm theo kế hoạch
phân phối của Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận phải có sự bàn bạc tập thể
trong Uỷ ban và phối hợp chặt chẽ với các Ban quản trị hợp tác xã. Nếu cá nhân
nào tự ý giới thiệu nhân công đi làm không đúng chính sách và thể lệ của Nhà nước,
Uỷ ban hành chính cần tổ chức kiểm điểm và tuỳ mức độ và nguyên nhân khuyết điểm
mà có hình thức kỷ luật thích đáng.
IV. NGUYÊN TẮC
ĐIỀU HOÀ, PHÂN PHỐI NHÂN CÔNG
Ở Điều 3 trong bản Điều lệ,
Chính phủ đã quy định các nguyên tắc điều hoà, phân phối nhân công. Để thực hiện
đúng các nguyên tắc đó, khi điều hoà phân phối nhân công cho các ngành, các xí
nghiệp, công trường tuyển dụng, Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động các cấp cần
chú ý những điểm như sau:
1) Phải dựa vào quy hoạch sản xuất
nông nghiệp mà tính toán giữa khả năng và nhu cầu nhân công để phát triển nông
nghiệp toàn diện và mọi công tác của địa phương như: dân công, thuỷ lợi, kiến
thiết nông thôn v.v... Trên cơ sở đó xác định số nhân công có thể rút bớt để có
kế hoạch phân phối sử dụng nhân công cho hợp lý, vừa thoả mãn nhu cầu nhân công
cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, vừa đảm bảo nhu cầu nhân
công cho sản xuất công nghiệp, kiến thiết cơ bản và các ngành kinh tế khác.
2) Phải căn cứ vào tình hình ruộng
đất, tình hình nhân công thừa nhiều hoặc ít, tình hình sản xuất nông nghiệp,
nghề phụ, thời vụ v.v... của mỗi địa phương, đồng thời phải tính toán cả đến độ
xa gần từ địa phương tới các xí nghiệp, công trường để giao nhiệm vụ cung cấp
nhân công cho từng địa phương được hợp lý. Hướng phân phối cho các ngành tuyển
dụng là những nơi ruộng đất ít, thiếu điều kiện mở rộng diện tích canh tác,
nhân công thừa nhiều, ít khả năng phát triển nghề phụ, đời sống của nông dân
còn thấp hoặc những nơi đồng chiêm một vụ, những vùng gặp thiên tai v.v...
3) Phải tiến hành điều chỉnh số
nhân công sử dụng chưa hợp lý hoặc thừa của các ngành, các xí nghiệp, công trường...
trước khi phân phối cho các ngành, các xí nghiệp, công trường tuyển nhân công mới.
Khi phân phối trước hết lấy nhân công tại địa phương nơi mở xí nghiệp, công trường,
nếu không đủ mới điều động nhân công ở địa phương khác tới (nhất là nhân công
làm tạm thời). Các tỉnh miền núi, Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động cần có
kế hoạch động viên khả năng nhân công của địa phương, để giảm bớt những tổn phí
trong việc điều động nhân công ở miền xuôi lên làm tạm thời rồi lại trở về, đồng
thời tạo điều kiện cho đồng bào miền núi tiến bộ thêm và phát triển lực lượng
giai cấp công nhân trong đồng bào miền núi.
4) Phải xem xét kỹ yêu cầu, tính
chất sản xuất của mỗi ngành, mỗi xí nghiệp, công trường v.v... để đặt trình tự
ưu tiên trong khi phân phối. Đối với yêu cầu nhân công nhất là các loại thợ cho
các xí nghiệp quốc phòng, công nghiệp nặng, các công trình trọng điểm, các công
trình ở miền núi cần được ưu tiên phân phối trước. Đối với những yêu cầu nhân
công cho các ngành thuộc kế hoạch Trung ương phải được ưu tiên phân phối trước
các yêu cầu của các ngành thuộc kế hoạch địa phương.
5) Phải đảm bảo yêu cầu và thời
gian tuyển dụng của các ngành, các xí nghiệp, công trường... đồng thời khi bố
trí nhân công đi làm trước hết phải lấy những người lao động thiếu việc ở các
thành phố, nếu không đủ mới lấy người ở nông thôn. Đối với người ở nông thôn
trước hết cần bố trí cho các gia đình đông người, ruộng đất ít, thiếu việc làm
kể cả trong và ngoài hợp tác xã, trong đó cần ưu tiên cho quân nhân phục viên,
con em liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng, con em bộ đội, cán
bộ, công nhân. Cần chú trọng lựa chọn những người có nghề, thanh niên có sức
khoẻ ở những nơi ruộng đất ít, đời sống còn thấp, cần có công ăn việc làm.
V. TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC NGÀNH SỬ DỤNG
Ở Điều 4 và 5 trong bản điều lệ,
Chính phủ đã quy định trách nhiệm của các ngành sử dụng. Bộ Lao động giải thích
và quy định chi tiết như sau:
A. TUYỂN DỤNG:
1) Hàng năm và từng quý căn cứ
vào kế hoạch đã được Chính phủ quy định các ngành sử dụng phải lập kế hoạch
nhân công gửi cho Bộ lao động (nếu thuộc kế hoạch Trung ương) và gửi cho Sở,
ty, Phòng lao động (nếu thuộc kế hoạch địa phương) xin phân phối. Trong kế hoạch
nhân công, các ngành phải nêu rõ số nhân công cần tuyển dụng lâu dài đưa vào
biên chế và số nhân công làm tạm thời và tiêu chuẩn tuyển dụng.
Kế hoạch nhân công của các ngành
phải gửi trước ít nhất 2 tháng nếu là kế hoạch cả năm và ít nhất 1 tháng nếu là
kế hoạch cả năm và ít nhất 1 tháng nếu là kế hoạch từng quý, để cơ quan Lao động
tổng hợp, thẩm xét và lập kế hoạch phân phối cho các địa phương. Khi kế hoạch sản
xuất thay đổi, các ngành phải kịp thời điều chỉnh lại kế hoạch nhân công và báo
cáo cho cơ quan Lao động biết trước 1 tháng trước khi cần tuyển dụng nhân công
(hoặc không cần tuyển nữa), để cơ quan Lao động kịp thời điều chỉnh lại kế hoạch
phân phối.
Khi cần tuyển thêm nhân công,
trước hết các ngành phải điều chỉnh số nhân công thừa hoặc sử dụng chưa hợp lý
trong các ngành, nếu chưa đủ mới được tuyển thêm.
Các ngành không có kế hoạch nhân
công sẽ không được phân phối tuyển dụng. Trừ những trường hợp đột xuất ngoài kế
hoạch phải được Bộ lao động (nếu thuộc kế hoạch Trung ương) hoặc Uỷ ban hành
chính khu, thành, tỉnh (nếu thuộc kế hoạch địa phương) xét đồng ý mới được phân
phối tuyển dụng.
2) Khi các ngành, các xí nghiệp,
công trường v.v... đi tuyển nhân công, nếu theo kế hoạch phân phối của Bộ lao động
mà được tuyển nhân công ngay tại địa phương (thành phố, tỉnh) nơi mở xí nghiệp,
công trường... thì cử cán bộ đến trực tiếp Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng
lao động thành, tỉnh mà bàn bạc kế hoạch tuyển dụng và xin phân phối giới thiệu
về huyện, châu, quận để tuyển; đồng thời báo cáo cho Bộ lao động biết. Nếu theo
kế hoạch phân phối của Bộ lao động được tuyển nhân công ở địa phương (thành phố,
tỉnh) khác thì phải qua sự giới thiệu của Bộ lao động. Khi về huyện, châu, quận
thì do sự phân phối giới thiệu của Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận mà bàn bạc
với Uỷ ban hành chính xã cùng tiến hành tuyển dụng.
Đối với những yêu cầu đột xuất cấp
bách cần tuyển dụng một số nhân công làm tạm thời trong một thời gian ngắn để
làm những công việc như: chống thiên tai, bão lụt, hoả hoạn, vận chuyển gấp
hàng hoá, nguyên vật liệu v.v... thì có thể trực tiếp Uỷ ban hành chính địa
phương gần nhất xin phân phối (theo sự phân cấp về nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ
ban hành chính các cấp nói ở phần III) nhưng sau đó phải kịp thời báo cho Uỷ
ban hành chính và sở, ty, phòng lao động khu thành, tỉnh biết, đồng thời báo
các cho Bộ lao động biết (nếu thuộc kế hoạch Trung ương).
3) Khi các ngành, các xí nghiệp,
công trường v,v... về xã tuyển dụng phải báo cáo cho Uỷ ban hành chính xã biết
số nhân công tuyển dụng lâu dài đưa vào biên chế, số nhân công tuyển dụng tạm
thời để Uỷ ban hành chính xã bàn bạc với các hợp tác xã bố trí nhân công cho
thích hợp. Đối với nhân công tuyển dụng lâu dài đưa vào biên chế phải theo đúng
thể lệ của Nhà nước đã ban hành. Đối với nhân công tuyển dụng tạm thời phải ký
kết hợp đồng có thời hạn hoặc theo vụ theo mùa giữa đại biểu có thẩm quyền của
ngành sử dụng và đại biểu nhân công (nếu nhân công là xã viên hợp tác xã thì
ban quản trị ký). Hợp đồng ký kết không được trái với các chế độ lao động hiện
hành và phải có chứng thực của Uỷ ban hành chính xã.
Nội dung hợp đồng phải ghi rõ :
nhiệm vụ , thời gian công tác của nhân công, tiền công, chế độ phúc lợi xã hội,
trách nhiệm của ngành sử dụng và nhân công. Hợp đồng sau khi ký kết hai bên đều
có trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành.
4) Ngoài các nguyên tắc, thủ tục
quy định trên, các ngành, các xí nghiệp, công trường... không được tự ý tuyển dụng
nhân công dưới bất cứ dưới hình thức nào (tự ý cử cán bộ đi tuyển, tự ý tuyển
nhân công tới xin việc hoặc do cảm tình cá nhân giới thiệu v.v...), không được
tuyển dụng và sử dụng nhân công qua cai thầu, đầu dài hoặc dùng nhân công theo
lối khoán trắng.
Trường hợp các ngành, các xí
nghiệp, công trường... muốn tuyển con em công nhân, viên chức của đơn vị mình
cũng phải báo cáo và được sự chấp thuận của cơ quan Lao động thì mới được sử dụng.
Sau mỗi đợt tuyển dụng, các
ngành, các xí nghiệp, công trường... phải tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm và
báo cáo kết quả về sở, ty, phòng lao động nơi phân phối biết, đồng thời báo cáo
cho Bộ lao động (nếu thuộc kế hoạch Trung ương).
B. SỬ DỤNG:
1) Trước khi điều động nhân công
tới làm việc, các xí nghiệp, công trường... phải chuẩn bị: công việc làm, dụng
cụ, chỗ ăn ở v.v... để khi nhân công tới có thể giao việc ngay, tránh lãng phí
và đảm bảo đời sống cho nhân công. Phải căn cứ vào tình hình sản xuất, và trình
tự thi công để bố trí điều động nhân công cho hợp lý. Trường hợp cơ quan Lao động
kiểm tra xét thấy việc chuẩn bị chưa đầy đủ thì chưa cho điều động nhân công tới.
Việc điều động nhân công từ địa
phương tới xí nghiệp, công trường... phải được tổ chức chu đáo, nhanh, gọn. Trước
khi giao việc cho nhân công, phải được giáo dục chu đáo. Trường hợp đã trót tập
trung nhân công rồi mà kế hoạch sản xuất thay đổi hoặc do việc chuẩn bị chưa đầy
đủ thì xí nghiệp, công trường... phải kịp thời báo cáo cho Uỷ ban hành chính và
cơ quan Lao động để có thể điều chỉnh sang xí nghiệp, công trường... khác trong
địa phương, nếu cơ quan Lao động không điều chỉnh được thì xí nghiệp, công trường...
phải giải thích và thanh toán mọi quyền lợi : tiền tàu xe (người và hành lý),
tiền ăn đường cho nhân công trở về địa phương. Mặt khác xí nghiệp, công trường...
phải tổ chức kiểm điểm và tuỳ mức độ và nguyên nhân của khuyết điểm mà có thể
thi hành kỷ luật đối với cán bộ phụ trách.
2) Trong lúc sử dụng nhân công,
các ngành, các xí nghiệp, công trường... phải quản lý chặt chẽ, tổ chức lao động
hợp lý, giao việc có mức năng suất cụ thể, phải đảm bảo thi hành đúng các chế độ
lao động hiện hành và những điều ghi trong hợp đồng. Mặt khác phải chăm sóc đời
sống, giáo dục tư tưởng, chính trị, tổ chức học tập văn hoá, có kế hoạch bồi dưỡng
về nghề nghiệp và đào tạo thợ mới (ở những nơi sử dụng thợ, công việc có tính
chất kỹ thuật, thời gian sử dụng dài) để làm cho nhân công phát huy tính tích cực
sáng tạo không ngừng nâng cao năng suất lao động, tránh lãng phí trong khi làm
việc ở xí nghiệp, công trường đồng thời làm cho nhân công khi trở về có tác dụng
tốt cho các mặt công tác của địa phương.
3) Khi nhân công làm hết thời
gian ghi trong hợp đồng, nếu do yêu cầu của sản xuất mà các ngành, các xí nghiệp,
công trường... muốn tiếp tục sử dụng phải báo cáo và có sự chấp thuận của cơ
quan Lao động nơi phân phối nhân công (khi xét cơ quan Lao động cần trao đổi thống
nhất với Uỷ ban hành chính xã và hợp tác xã). Trường hợp vì những lý do khách
quan như: kế hoạch sản xuất rút hẹp, thiếu nguyên vật liệu v.v... nhân công thừa
trước khi hết thời hạn ghi trong hợp đồng thì trước hết ngành sử dụng phải điều
chỉnh trong nội bộ (lao động thường chủ yếu là điều chỉnh trong địa phương) đồng
thời báo cáo cho cơ quan Lao động biết. Nếu không có khả năng điều chỉnh, thì
báo cáo cho cơ quan Lao động địa phương để có thể điều chỉnh sang ngành khác.
Trường hợp cơ quan Lao động không điều chỉnh được thì mới cho nhân công thôi việc.
Khi nhân công hết việc trở về địa
phương, xí nghiệp, công trường... phải tổ chức kiểm điểm thi đua, khen thưởng
những đơn vị và cá nhân có thành tích đồng thời thanh toán chu đáo mọi quyền lợi
đã ghi trong hợp đồng và theo chế độ lao động hiện hành, làm giấy giới thiệu nhận
xét về Uỷ ban hành chính xã. Mặt khác, công trường phải báo cáo cho cơ quan Lao
động địa phương nơi mở xí nghiệp, công trường và nơi phân phối nhân công biết,
đồng thời báo cáo cho Bộ lao động (nếu thuộc kế hoạch Trung ương).
Trường hợp nhân công đã làm hết
thời hạn ghi trong hợp đồng mà các ngành, các xí nghiệp, công trường... muốn
tuyển vào biên chế phải báo cáo và được sự chấp thuận của Bộ lao động (nếu thuộc
kế hoạch Trung ương) hoặc sở, ty, phòng lao động nơi phân phối nhân công (nếu
thuộc kế hoạch địa phương).
VI. VIỆC THI
HÀNH KỶ LUẬT NẾU VI PHẠM NHỮNG ĐIỀU QUY ĐỊNH
Ở Điều 8 trong bản Điều lệ,
Chính phủ đã quy định: "Cá nhân hoặc tổ chức nào vi phạm những điều quy định
trên, tự động tuyển người không qua Uỷ ban hành chính các cấp giới thiệu sẽ bị
phê bình quảng cáo; trường hợp hành động vi phạm nghiêm trọng sẽ bị truy tố trước
pháp luật". Bộ Lao động giải thích như sau:
Đây là một biện pháp quan trọng
để đảm bảo việc chấp hành nghiêm chỉnh bản Điều lệ của Chính phủ, mặt khác là một
hình thức giáo dục đối với cán bộ về ý thức tôn trọng pháp luật của Nhà nước.
Những trường hợp vi phạm bản Điều
lệ, tự tuyển nhân công bất cứ dưới hình thức nào, sử dụng nhân công gây nên
lãng phí đều bị thi hành kỷ luật, nếu nhẹ thì bị phê bình, nếu nặng thì cảnh
cáo. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng có tác hại tới nhiều mặt, nhiều chính sách
hoặc đã bị cảnh cáo rồi mà không chịu sửa chữa thì sẽ bị truy tố trước pháp luật.
Cách sử lý thì: - Sai lầm do cá
nhân vi phạm, mà đơn vị hoặc cơ quan Lao động kiểm tra phát hiện thì do đơn vị
tiến hành kiểm điểm và tuỳ mức độ và nguyên nhân sai lầm mà thi hành kỷ luật hoặc
đề nghị đưa ra truy tố trước pháp luật. Sai lầm do tổ chức vi phạm mà do cơ
quan quản lý cấp trên hoặc cơ quan Lao động kiểm tra phát hiện thì đơn vị phải
tiến hành kiểm điểm và do Bộ chủ quản (nếu thuộc kế hoạch Trung ương) hoặc Uỷ
ban hành chính khu, thành, tỉnh (nếu thuộc kế hoạch địa phương) sử lý về mặt kỷ
luật hoặc đề nghị đưa ra truy tố trước pháp luật đối với cán bộ phụ trách.
Khi các Bộ, các ngành, các xí
nghiệp, công trường... sử lý về mặt kỷ luật hoặc đề nghị đưa ra truy tố trước
pháp luật đối với cá nhân hoặc tổ chức vi phạm cần có sự bàn bạc thống nhất ý
kiến với Bộ Lao động và cơ quan Lao động các địa phương.
VII. BIỆN
PHÁP THỰC HIỆN
Ở Điều 9 trong Bản Điều lệ,
chính phủ đã quy định. "Uỷ ban hành chính các khu, thành, tỉnh phải chú ý
tăng cường tổ chức cơ quan Lao động, Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận, xã,
khu phố phải có một uỷ viên phụ trách công tác nhân công. Các Bộ, các ngành sử
dụng phải tăng cường lãnh đạo các tổ chức quản lý nhân công ở cơ quan Bộ, ngành
và cơ sở sản xuất" Bộ lao động hướng dẫn thêm về biện pháp thực hiện bản
điều lệ như sau:
1) Uỷ ban hành chính khu, thành,
tỉnh phải trực tiếp lãnh đạo công tác nhân công, ngoài việc tăng cường cơ quan
Lao động về số lượng và chất lượng cán bộ, giao nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng
thì đồng thời chú ý tạo mọi điều kiện cho cơ quan Lao động làm tròn nhiệm vụ. ở
huyện, châu, quận, xã, khu phố, Uỷ ban hành chính cũng phải trực tiếp lãnh đạo
công tác nhân công, ngoài việc phân công một uỷ viên phụ trách, thì tuỳ tình
hình của mỗi địa phương theo sự quy định của Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh
mà bố trí thêm cán bộ chuyên trách giúp việc.
Trong khi tiến hành nhiệm vụ quản
lý, điều hoà, phân phối nhân công, cơ quan Lao động các cấp phải có sự phối hợp
chặt chẽ với Ban công tác nông thôn, Công đoàn và các ngành, các đoàn thể có
liên quan như: Công an, Y tế, v.v...
2) Các Bộ và Uỷ ban hành chính
các cấp cần phổ biến sâu rộng bản Điều lệ của Chính phủ và thông tư hướng dẫn của
Bộ Lao động trong cán bộ các ngành, các cấp, trong công nhân và nông dân. Cần
tăng cường và thường xuyên giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, thái độ lao động
mới, vị trí quan trọng của sản xuất nông nghiệp cho nông dân nhất là các xã
viên hợp tác xã, để cho mọi người tích cực lao động sản xuất nông nghiệp. Mặt
khác trong các đợt tuyển dụng nhân công cần tiến hành giáo dục cho nông dân về
tính chất quan trọng của sản xuất công nghiệp và yêu cầu, tính chất công tác của
ngành tuyển dụng để cho nông dân sẵn sàng đi làm, tích cực lao động sản xuất
trên các xí nghiệp, công trường...
3) Các Bộ, các Uỷ ban hành chính
và sở, ty, phòng lao động cần tổ chức chỉ đạo riêng việc thực hiện bản Điều lệ ở
một vài địa phương, một vài xí nghiệp, công trường... để rút kinh nghiệm lãnh đạo
chung. Mặt khác trong quá trình thực hiện cần tăng cường công tác kiểm tra,
theo dõi tình hình tuyển dụng và sử dụng nhân công của các ngành, các cấp nhất
là ở các xí nghiệp, công trường... để kịp thời uốn nắn, bổ khuyết những thiếu
sót đảm bảo thi hành một cách đúng đắn bản Điều lệ của Chính phủ.
Công tác tuyển dụng và sử dụng
nhân công nói chung và ở nông thôn nói riêng là một chính sách lớn của Đảng và
Chính phủ, có quan hệ đến nhiều ngành kinh tế và nhiều chính sách khác, nó đóng
một vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước và giải quyết
công ăn việc làm cho những người thiếu việc, góp phần nâng cao đời sống của
nhân dân lao động. Vì vậy Bộ Lao động đề nghị các Bộ, các Uỷ ban hành chính và
sở, ty, phòng lao động cần phổ biến sâu rộng bản Điều lệ của Chính phủ và thông
tư hướng dẫn này của Bộ Lao động và chú ý đúng mức việc chỉ đạo thực hiện.
Trong quá trình thực hiện có những mắc mứu gì hoặc có vấn đề chưa rõ, kịp thời
báo cáo cho Bộ Lao động, để giải thích hoặc bổ sung thông tư.