BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
220-TT
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 09 năm 1961
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC CHẤN CHỈNH VÀ TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG CÁC CƠ SỞ GIAO
THÔNG VẬN TẢI ĐỊA PHƯƠNG
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO
THÔNG VẬN TẢI
Kính gửi:
|
- Ủy ban hành chính các khu, tỉnh
thành.
- Các ông Giám đốc các Sở Giao thông vận tải khu, thành
- Các ông Trưởng ty Giao thông Vận tải các tỉnh.
|
Trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta, việc xây dựng sự nghiệp giao thông vận tải là một
công tác hết sức quan trọng vì giao thông vận tải là một khâu không thể thiếu
được trong quá trình sản xuất; đồng thời giao thông vận tải lại có quan hệ trực
tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân và sự nghiệp củng cố quốc phòng trong
cả nước.
Giao thông vận tải của ta hiện
nay bao gồm bốn ngành chủ yếu: đường sắt, đường bộ, đường sông và đường biển.
Theo sự phân công, Trung ương trực tiếp quản lý các ngành đường sắt, đường biển
và những đường ô tô, đường sông trên những trục giao thông chính, có liên quan
đến nhiều khu vực hành chính, kinh tế, bảo đảm phục vụ những yêu cầu vận tải có
tính chất chung của toàn quốc. Các địa phương có trách nhiệm, căn cứ vào đường
lối, chính sách chung của Đảng và Nhà nước và tình hình cụ thể của địa phương
mình, ra sức xây dựng sự nghiệp giao thông vận tải địa phương, chủ yếu trước mắt
là giao thông vận tải đường bộ và đường sông, nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển
kinh tế, văn hóa cũng như sự trị an của địa phương mình, đồng thời bổ sung,
tăng cường hoàn chỉnh màng lưới giao thông vận tải của toàn quốc, đảm nhiệm
công việc giao thông vận tải của trung ương giao.
Từ hòa bình lập lại, các mặt
công tác giao thông vận tải địa phương đã phát triển nhanh chóng, nhưng vẫn
chưa kịp đáng ứng với yêu cầu. Đường sá ở nông thôn, miền núi cũng chưa phát
triển được nhiều, đôi vai của người nông dân căn bản chưa được giải phóng.
Sông, ngòi, bến cảng phần lớn còn ở trạng thái tự nhiên, chưa được chú trọng cải
thiện. Phương tiện vận tải đã thiếu, nhưng cũng chưa được sắp xếp hợp lý để tận
dụng. Việc bảo dưỡng đường sá chưa được chú trọng đúng mức, chất lượng đường
không được bảo đảm.
Kiểm điểm trong những năm qua,
có nhiều địa phương còn nặng phần phục vụ làm đường sá và vận tải của trung
ương, có phần coi nhẹ công việc của địa phương và cũng có trường hợp trách nhiệm
chưa được rõ ràng. Bộ Giao thông vận tải trực tiếp theo kế hoạch cho các Ty,
các Ủy ban hành chính không có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kế hoạch,
tình trạng bất hợp lý trên đây không thể để tồn tại được. Trong kế hoạch năm
năm kinh tế địa phương phát triển nhất là nông nghiệp phải phát triển nhanh và
mạnh, công nghiệp địa phương cũng đang trên đà xây dựng. Đời sống văn hóa xã hội
của nhân dân ngày càng tiến bộ, do đó tổ chức giao thông vận tải ở địa phương
phải được củng cố và tăng cường nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế của địa
phương và hỗ trợ cho trung ương.
Để tăng cường quản lý và phát
triển các mặt công tác giao thông vận tải địa phương. Bộ quy định một số vấn đề
chấn chỉnh tổ chức và xây dựng các cơ sở giao thông vận tải địa phương như sau:
1. Nhiệm vụ
và trách nhiệm của các Sở, Ty giao thông vận tải địa phương.
Các Sở, Ty giao thông vận tải là
cơ quan quản lý toàn bộ công tác giao thông vận tải trong địa phương, chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác giao thông vận tải phù hợp với đường lối,
chủ trương kế hoạch của Nhà nước, và nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và việc
trị an của nhân dân trong địa phương.
Các Sở, Ty giao thông vận tải có
nhiệm vụ:
a) Bảo đảm thực hiện đúng đắn
các chủ trương, chính sách luật lệ của Nhà nước, các chỉ thị, thông tư, quyết định
của Bộ Giao thông vận tải và của Ủy ban hành chính địa phương về công tác giao
thông vận tải.
b) Căn cứ kế hoạch của Bộ Giao
thông vận tải và yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa trong địa phương, lập kế
hoạch xây dựng phát triển giao thông vận tải trình cấp trên phê chuẩn, tổ chức
và chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy.
c) Tổ chức và chỉ đạo công tác
xây dựng các công trình giao thông về đường bộ, đường thủy của địa phương và của
trung ương giao, bảo đảm nâng cao và mở rộng không ngừng màng lưới giao thông vận
tải trong tỉnh.
d) Theo sự phân cấp quản lý tổ
chức và chỉ đạo công tác bảo dưỡng đường bộ, đường thủy, bến tàu, bến xe và những
công trình giao thông khác trong tỉnh, bảo đảm giao thông vận tải thường xuyên,
liên tục và năng lực sử dụng công trình ngày một nâng cao.
đ) Tổ chức và chỉ đạo công tác vận
tải bằng đường bộ và đường thủy, bảo đảm nhu cầu giao thông vận tải của địa
phương cũng như của trung ương giao.
e) Tổ chức và chỉ đạo công tác sửa
chữa và chế tạo các phương tiện vận tải cải tiến và bán cơ giới, kịp đáp ứng với
nhu cầu phát triển vận tải trong địa phương;
g) Tổ chức và chỉ đạo việc cải tạo
vận tải tư nhân, xây dựng các công tư hợp doanh và hợp tác xã vận tải và sửa chữa
hoặc sản xuất các phương tiện vận tải đúng với chính sách của Nhà nước;
h) Căn cứ các quy định của Nhà
nước và của Bộ Giao thông vận tải, tổ chức việc đăng ký, kiểm tra an toàn kỹ
thuật các phương tiện vận tải cùng với Ty Công an địa phương, sát hạch lái xe,
cấp giấy phép kinh doanh cho các chủ phương tiện vận tải trong tỉnh.
i) Tổ chức và chỉ đạo công tác
xây dựng giao thông vận tải nông thôn, miền núi, bảo đảm yêu cầu đẩy mạnh sản
xuất và phát triển văn hóa của nhân dân, hướng dẫn nhân dân phát triển và cải
tiến các công cụ vận tải, thực hiện giải phóng đôi vai.
Để có thể bảo đảm được các nhiệm
vụ quy định trên đây, bộ máy của các Sở Ty Giao thông vận tải cần được kiện
toàn. Tùy theo khối lượng công việc và sự cần thiết của từng địa phương, các Sở,
Ty có thể tổ chức ra các bộ phận để giúp Trưởng Phó Ty theo dõi thực hiện các mặt
công tác về vận tải, kiến thiết cơ bản, quản lý đương sá, lòng lạch giao thông
vận tải nông thôn, miền núi, kế hoạch, thống kê, kế toán tài vụ, cung cấp vật
tư, nhân sự, giáo dục, tiền lương, văn thư, quản trị, v.v… Các mặt công tác này
có thể tổ chức thành từng bộ phận chuyên trách về từng việc hoặc ghép hai, ba
công việc chung. Các Sở, Ty giao thông vận tải sẽ căn cứ vào tình hình thực tế
nhiệm vụ của mình để dề nghị Ủy ban hành chính địa phương quyết định việc thiết
lập hay sửa đổi bộ máy cho phù hợp.
2. Công tác
bảo dưỡng đường ô-tô
Để tăng cường công tác bảo dưỡng
đường ôtô, trên cơ sở nguyên tắc phân chia ra các đường quốc lộ, liên tỉnh do
trung ương quản lý và các đường hàng tỉnh do địa phương quản lý, cần tổ chức
các Đoạn bảo dưỡng đường trên những tuyến đường thuộc trung ương quản lý. Các
Đoạn bảo dưỡng đường là những đơn vị sản xuất cơ sở có nhiệm vụ tổ chức việc bảo
dưỡng thường xuyên đường, cầu, phà trong phạm vi quản hạt của mình, bảo đảm
công việc vận chuyển được liên tục, an toàn, tổ chức việc trồng cây khai thác tận
dụng đất đai ven đường; đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thi hành các chủ
trương, chính sách, luật lệ giao thông đường bộ. Các Đoạn này chịu sự lãnh đạo
hai chiều của Sở Ty Giao thông vận tải địa phương và của Cục vận tải đường bộ.
Kinh phí chi tiêu của các Đoạn này do ngân sách sự nghiệp kiến thiết giao thông
của trung ương đài thọ. Việc thiết lập hoặc bãi bỏ các Đoạn bảo dưỡng đường
trên các tuyến đường trung ương quản lý do các Sở, Ty Giao thông vận tải và Cục
Vận tải đường bộ đề nghị, Bộ Giao thông vận tải quyết định.
Đối với những tuyến đường hàng tỉnh
do địa phương quản lý, nếu nơi nào lưu lượng vận chuyển nhiều cũng có thể tổ chức
việc bảo dưỡng đường tương tự, tổ chức riêng biệt hay đặt dưới sự chỉ huy chung
của Đoạn trung ương là tùy theo tình hình đường sá từng nơi nhiều ít để quy định.
Nơi nào lưu lượng vận chuyển
chưa thật nhiều đến mức cần phải tổ chức lực lượng bảo dưỡng thường xuyên thì
có thể giao cho một Đội duy tu lưu động của địa phương đảm nhiệm. Các tổ chức
trên đây chi tiêu kinh phí kiến thiết kinh tế thuộc ngân sách địa phương. Việc
thiết lập hay bãi bỏ các tổ chức này do Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương đề
nghị và Ủy ban hành chính tỉnh, khu hoặc thành phố ở địa phương đó quyết định.
3. Công tác
quản lý đường sông.
Những luồng sông chính, lưu lượng
vận chuyển nhiều, công việc vận tải có quan hệ đến nhiều địa phương, việc tận dụng
khả năng vận chuyển đòi hỏi phải có những công trình kỹ thuật phức tạp sẽ do
trung ương quản lý. Trên những luồng sông này sẽ tổ chức các Đoạn đường sông phụ
trách từng khúc sông nhất định (từ 200 km đến 300 km). Các Đoạn đường sông có
nhiệm vụ tổ chức việc khảo sát đo sâu lòng lạch, nắm vững tình trạng đường sông
thuộc phạm vi quản hạt của mình, bảo dưỡng, tu sửa các phao đăng tiêu trên
sông, xác định vị trí các phao đăng tiêu cho chính xác, tổ chức việc phá huỷ
các chướng ngại trên sông, làm lá chắn, nạo vét thô sơ để khai thông luồng
sông, bảo đảm cho công việc vận chuyển được liên tục và an toàn; Đồng thời theo
dõi, kiểm tra việc thi hành các chính sách, luật lệ về giao thông đường sông.
Các Đoạn đường sông này là những đơn vị sản xuất cơ sở chịu sự lãnh đạo trực tiếp
của Cục Vận tải đuờng thuỷ; kinh phí chi tiêu do ngân sách sự nghiệp kiến thiết
giao thông của trung ương đài thọ. Việc thiết lập, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Đoạn
này do Cục Vận tải đuờng thuỷ đề nghị, Bộ Giao thông vận tải quyết định.
Trên các luồng sông địa phương,
nơi nào lưu lượng vận chuyển nhiều cần có lực lượng bảo dưỡng thường xuyên thì
cũng có thể thiết lập các Đoạn hay các Trạm đường sông, nội dung nhiệm vụ tương
tự như các Đoàn của trung ương nhưng trong một phạm vi nhỏ hơn; các Đoạn hoặc
Trạm này có thể đặt riêng hay chịu sự chỉ huy chung của từng nơi mà quy định.
Kinh phí chi tiêu của các Đoạn hoặc Trạm đường sông địa phương do Ngân sách địa
phương đài thọ. Việc thiết lập hoặc bãi bỏ các Đoạn hoặc Trạm đường sông này do
các Sở, Ty Giao thông vận tải đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh, khu hoặc thành phố
ở địa phương đó quyết định.
4. Tổ chức lực
lượng xây dựng các công trình giao thông
Theo sự phân cấp giữa trung ương
và địa phương nhằm hoàn thành mau chóng các công trình làm mới và sửa chữa lớn
cầu đường, trung ương đảm nhận xây dựng các công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, địa
phương phụ trách các công trình kỹ thuật vừa. Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ xây
dựng các công trình giao thông của địa phương cũng như những công trình của
trung ương giao cho làm với chất lượng tốt và năng suất cao và cũng nhằm để xây
dựng một lực lượng công nhân có trình độ kỹ thuật nhất định, đi đôi với việc
huy động nhân dân làm nghĩa vụ xây dựng đường sá, các Sở, Ty Giao thông vận tải
cần tổ chưc các Đội công trình chuyên nghiệp. Các đội công trình này có nhiệm vụ
xây dựng mới và sửa chữa lớn các công trình cầu đường và những công trình giao
thông khác trong địa phương, kể cả các công trình giao thông chuyên dụng của
các ngành khác thuê làm.
Mỗi Đội công trình là một đơn vị
sản xuất cơ sở, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, tiến lên thành những
xí nghiệp bao thầu xây dựng của địa phương. Lực lượng công nhân cố định trong
các đội công trình này bước đầu không nên quá 1/3 tổng số người cần thiết hàng
năm theo dự định trong kế hoạch 5 năm; số còn lại có thể thuê mượn tạm thời hoặc
huy động nhân dân làm nghĩa vụ.
Kinh phí chi tiêu của các Đội
công trình nay do vốn kiến thiết cơ bản hoặc trung đại tu mà các đội công trình
này làm đài thọ. Việc thiết lập hoặc bãi bỏ các Đội công trình này do các Sở,
Ty Giao thông vận tải địa phương căn cứ nhiệm vụ trong từng thời kỳ mà đề nghị ủy
ban hành chính tỉnh, khu, thành phố ở địa phương do quyết định. Các Đội công
trình này chịu sự lãnh đạo trực tiếp của các Sở, Ty Giao thông vận tải địa
phương.
5. Công tác
khảo sát thiết kế
Trong sự nghiệp xây dựng phát
triển giao thông vận tải ở địa phương cần chú trọng tăng cường lực lượng làm
công tác khảo sát thiết kế để đảm bảo chất lượng công trình và các quy trình
quy phạm của Nhà nước, thực hiện các nề nếp về kiến thiết cơ bản. Tùy theo tình
hình và yêu cầu nhiệm vụ của từng nơi, mỗi địa phương sẽ tổ chức một Đội khảo
sát hoặc một Tổ khảo sát thiết kế, đặt trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Sở, Ty
Giao thông vận tải. Các đội hoặc Tổ khảo sát thiết kế này có nhiệm vụ tổ chức
công việc khảo sát thiết kế về xây dựng mới và sửa chữa (vừa và lớn) các công
trình giao thông vận tải trong địa phương, bảo đảm phục vụ kịp thời cho việc
xây dựng và sửa chữa các công trình này. Kinh phí chi tiêu của các Đội và các Tổ
khảo sát thiết kế của các công trình kiến thiết cơ bản hoặc trung đại tu mà Đội
hoặc Tổ khảo sát thiết kế này do Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương đề nghị, ủy
ban hành chính tỉnh, khu, hoặc thành phố ở địa phương đó quyết định.
6. Tổ chức
quản lý bến sông
Để phục vụ cho yêu cầu phát triển
nông nghiệp nên phải khẩn trương phát triển đường sông. Trong kế hoạch năm năm
những nơi nào có sông lạch nhiều sẽ tổ chức các Công ty, Quốc doanh đường sông
bao gồm chủ yếu các phương tiện vận tải thuyền và tùy theo từng nơi sẽ có cơ giới
để giải quyết sức kéo một số sà – lan nhỏ. Cho nên các hợp tác xã thuyền cần phải
phát triển mạnh và do đó các bến sông cũng phải đuợc xây dựng.
Trên những đường sông thuộc
trung ương quản lý; trung ương sẽ xây dựng và tổ chức các bến sông do Cục Vận tải
đường thuỷ trực tiếp lãnh đạo. Các bến sông này có nhiệm vụ tổ chức việc giao
nhận hàng hóa, bốc rỡ và bảo quản hàng hoá, phục vụ hành khách lên xuống và việc
ra vào bến của tàu, thuyền được an toàn. Mỗi bến là một đơn vị sản xuất cơ sở,
quản lý kinh doanh theo chế độ kinh tế hạch toán. Việc thiết lập hoặc bãi bỏ
các bến này do Cục Vận tải đường thủy đề nghị, Bộ Giao thông vận tải quyết định.
Trên những đường sông thuộc
trung ương quản lý, địa phương cũng có trách nhiệm xây dựng những bến sông phục
vụ yêu cầu vận chuyển của địa phương mình nếu xét thấy thật cần thiết. Và trên
những những đường sông thuộc địa phương quản lý nơi nào lưu lượng vận chuyển
nhiều liên tục cả năm cần có lực lượng thường xuyên để đảm nhiệm củng cố tổ chức
các bến sông thành những xí nghiệp kinh doanh của địa phương với nhiệm vụ tương
tư như các bến sông của trung ương. Vốn đầu tư xây dựng các bến sông này do
ngân sách địa phương đài thọ. Việc thiết lập hoặc bãi bỏ các bến sông này do Sở,
Ty Giao thông vận tải địa phương đề nghị ủy ban hành chính tỉnh, khu hoặc thành
phố ở địa phương đó quyết định.
Các bến sông của địa phương đã
được tổ chức thành xí nghiệp của Nhà nước (thuộc chính quyền địa phương) do các
Sở,Ty Giao thông vận tải địa phương trực tiếp lãnh đạo.
Ở những nơi nào lưu lượng vận
chuyển chưa thật nhiều công việc không được thường xuyên liên tục cả năm thì
chưa tổ chức thành xí nghiệp của Nhà nước; việc tổ chức bến sông chủ yếu vẫn dựa
vào hình thức hợp tác xã hoặc tập đoàn bốc vác như hiện nay.
7. Tổ chức
quản lý bến ô – tô
Ô – tô là một loại phương tiện hết
sức cơ động. Các lực lượng công tư hợp doanh địa phương phải phục vụ chủ yếu
cho sự phát triển công, nông nghiệp địa phương và sự đi lại của nhân dân.
Trong kế hoạch năm năm cần phải
đầu tư cho ngành ô tô vận tải hành khách để có khả năng vận tải đi các huyện và
các vùng kinh tế tập trung của địa phương.
Để phục vụ tốt hành khách đi xe
và việc xe ra vào bến cần xây dựng và tổ chức các bến ô tô. Các bến ô tô có nhiệm
vụ tổ chức việc phục vụ hành khách, quản lý giờ xe chạy, tổ chức việc ra vào bến
của xe, bảo đảm vật tư và vệ sinh công cộng ở bến xe. Các bến xe ô tô sẽ do
công tư hợp doanh hoặc quốc doanh vận tải địa phương quản lý. Chi tiêu của các
bến ô tô sẽ do vốn kinh doanh vận tải đài thọ, trừ kinh phí về xây dựng cơ bản
sẽ do ngân sách kiến thiết kinh tế cấp. Ở địa phương nào mà bến xe có nhiều ô
tô của các đơn vị vận tải ở các địa phương khác cũng đến đỗ, không tiện giao
cho một công ty vận tải ô tô quản lý, thì có thể lập thành một Ban quản lý bến
ô tô do Sở hoặc Ty Giao thông vận tải trực tiếp lãnh đạo. Chi tiêu của Ban quản
lý bến ô tô này sẽ do nguồn thu về lệ phí ô-tô đỗ bến đài thọ.
8. Các cơ sở
vận tải.
Để tổ chức việc vận tải bảo đảm
phục vụ nhu cầu vận tải hàng hoá và hàng khách trong địa phương, ngoài các lực
lượng vận tải công tư hợp doanh và hợp tác xã vận tải hiện có, các địa phương
có thể xây dựng phát triển các cơ sở vận tải quốc doanh địa phương theo yêu cầu
nhiệm vụ và khả năng của địa phương. Các cơ sở vận tải của địa phương, công tư
hợp doanh hoặc quốc doanh, là những xí nghiệp kinh doanh, tự chủ về mặt hành
chính, có vốn riên, được mở tài khoản riêng và đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của các Sở, Ty Giao thông vận tải. Vốn đầu tư xây dựng các cơ sở vận tải này do
ngân sách địa phương cấp và khi cần thiết cũng có sự hỗ trợ của trung ương.
Việc thiết lập hoặc bãi bỏ các
cơ sở này do các Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương đề nghị, Ủy ban hành chính
tỉnh, khu hoặc thành phố ở địa phương đó quyết định sau khi có sự thống nhất ý
kiến với Bộ giao thông vận tải.
9. Các cơ sở
sửa chữa và sản xuất phương tiện vận tải.
Tuỳ theo tình hình và yêu cầu
phát triển giao thông vận tải của từng nơi, trên cơ sở sắp xếp lại các tổ chức
sửa chữa và sản xuất phương tiện vận tải hiện có, các địa phương có thể thiết lập
các cơ sở sửa chữa đến mức trung tu và sản xuất phương tiện vận tải bán cơ giới
và thô sơ cải tiến. Các cơ sở này có nhiệm vụ sửa chữa các phương tiện vận tải
của địa phương, sản xuất các phương tiện vận tải bán cơ giới và thô sơ cải tiến
bảo đảm phục vụ nhu cầu phát triển lực lượng vận tải thô sơ trong địa phương và
phong trào giải phóng đôi vai của nhân dân. Các cơ sở này là những xí nghiệp
công nghiệp của địa phương do các Sở, Ty Giao thông vận tải trực tiếp lãnh đạo,
hoạt động theo chế độ kinh tế hạch toán, tự chủ về mặt hành chính, có vốn
riêng, được mở tài khoản riêng. Vốn đầu tư xây dựng do ngân sách địa phương cấp
là chủ yếu, khi cần mới được trung ương hỗ trợ. Việc thiết lập hoặc bãi bỏ các
xí nghiệp này do các Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương đề nghị, các Ủy ban
hành chính tỉnh, khu hoặc thành phố ở địa phương đó quyết định.
10. Tổ chức
cơ quan chuyên trách công tác giao thông vận tải ở huyện và xã.
Việc phát triển giao thông vận tải
nông thôn miền núi giải phóng đôi vai là một công tác rất quan trọng đối với việc
phát triển nông nghiệp ở địa phương. Trước đây công tác này không thành trọng
tâm của ngành giao thông vận tải địa phương, đó là khuyết điểm.
Trong kế hoạch năm năm, việc
phát triển đường nông thôn miền núi và giải phóng đôi vai là một công tác hàng
đầu của ngành giao thông vận tải ở địa phương.
Để tăng cường việc phát triển
giao thông vận tải trong nông thôn, phục vụ cho việc đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, cần phải xây dựng và kiện toàn các cơ quan phụ trách công tác giao
thông vận tải ở huyện và ở xã:
a) Ở huyện đồng bằng, không tổ
chức phòng Giao thông mà phải có một số cán bộ chuyên trách về công tác giao
thông vận tải nằm trong bộ phận nông nghiệp kiêm thủy lợi, do một Ủy viên Ủy
ban hành chính huyện phụ trách.Ở các châu, huyện miền núi thì tuỳ tình hình cụ
thể mà có thể để một người chuyên trách riêng về giao thông vận tải.
Tổ chức giao thông vận tải ở huyện
có nhiệm vụ:
1. Bảo đảm chấp hành đúng đắn
các luật lệ của nhà nước, các chỉ thị thông tri của Ủy ban hành chính và Sở Ty
Giao thông vận tải địa phương về các mặt công tác giao thông vận tải.
2. Lập kế hoạch xây dựng phát
triển công tác giao thông vận tải của huyện, tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch
ấy.
3. Tổ chức và chỉ đạo công tác
xây dựng các hệ thống giao thông vận tải trong huyện, bảo đảm phục vụ kịp yêu cầu
vận tải của huyện.
4.Quản lý các hợp tác xã và tổ
chức kinh doanh vận tải trong huyện.
5. Tổ chức việc đăng ký và kiểm
tra an toàn kỹ thuật các phương tiện vận tải trong huyện; quản lý các phương tiện
vận tải đó và điều động phương tiện phục vụ nhu cầu vận tải.
6. Tổ chức và hướng dẫn nhân dân
phát triển và cải tiến các loại phương tiện vận tải phục vụ đẩy mạnh sản xuất
và cải thiện đời sống ở nông thôn.
7. Tuyên truyền giáo dục nhân
dân tuân theo các luật lệ về giao thông vận tải; vận động nhân dân tham gia vào
việc xây dựng và bảo vệ các công trình giao thông vận tải chung của Nhà nước.
Để đảm bảo thoả mãn nhu cầu vận
tải hàng hoá và hành khách trong huyện, ngoài các lực lượng hợp tác xã vận tải
hiện có, tuỳ theo tình hình từng nơi, các huyện có thể tổ chức những cơ sở vận
tải (xe ngựa, xe trâu) theo hình thức Quốc doanh của huyện. Việc xây dựng các
cơ sở này do Ủy ban hành chính huyện và Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương đề
nghị, Ủy ban hành chính tỉnh, khu hoặc thành phố ở địa phương đó quyết định.
b) Ở cấp xã, Ủy viên Ủy ban hành
chính xã phụ trách về công tác thuỷ lợi sẽ phụ trách cả công tác giao thông vận
tải trong xã và tuỳ theo tình hình để bố trí thêm một số cán bộ giúp việc. Trường
hợp ở xã có nhiều hợp tác xã thì số cán bộ giúp việc nên cử ở mỗi hợp tác xã một
người để tiện tiến hành công việc. Giao thông vận tải ở xã có những nhiệm vụ:
1. Lập kế hoạch xây dựng phát
triển giao thông vận tải trong xã phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế văn
hoá của xã;
2. Tổ chức và hướng dẫn nhân dân
xây dựng phát triển các đường giao thông trong xã, trước hết bảo đảm vận tải
cho sản xuất nông nghiệp của nhân dân, rồi tới sự đi lại của nhân dân;
3. Tổ chức và hướng dẫn nhân dân
phát triển và cải tiến các phương tiện và công cụ vận tải, đẩy mạnh phong trào
giải phóng đôi vai;
4. Quản lý các lực lượng vận tải
chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp trong xã, quản lý các bến đò của xã;
5. Tuyên truyên giáo dục nhân
dân tuân theo các luật lệ giao thông vận tải, tổ chức và vận động nhân dân tham
gia xây dựng, bảo vệ những công trình giao thông vận tải chung của Nhà nước.
Việc chấn chỉnh và tăng cường
xây dựng các cơ sở giao thông vận tải địa phương có ý nghĩa rất quan trọng.
Thông tư này chỉ nêu lên những vấn đề có tính chất nguyên tắc chung, Bộ yêu cầu
các Ủy ban hành chính và các Sở, Ty Giao thông vận tải căn cứ vào tình hình thực
tế của địa phương có kế hoạch thực hiện cho phù hợp.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Phan Trọng Tuệ
|