BỘ
LAO ĐỘNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP-UỶ BAN NÔNG NGHIỆP TRUNG ƯƠNG
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
22-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 6 năm 1975
|
THÔNG TƯ
LIÊN BỘ LAO ĐỘNG - UỶ BAN NÔNG NGHIỆP TRUNG ƯƠNG - TỔNG CỤC
LÂM NGHIỆP SỐ 22-TT/LB NGÀY 24 THÁNG 6 NĂM 1975 HƯỚNG DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LAO
ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN TÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP Ở
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI
Thi hành Quyết định số 129-CP
ngày 25 tháng 5 năm 1974 của Hội đồng Chính phủ quy định về chính sách đối với
các hợp tác xã mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp ở trung du và miền
núi; Bộ Lao động, Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương và Tổng cục Lâm nghiệp hướng dẫn
cụ thể một số vấn đề về lao động như sau.
I- VẤN ĐỀ XÂY
DỰNG QUY HOẠCH VÀ KẾ HOẠCH LAO ĐỘNG
Trong quá trình thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước về tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý nông
nghiệp từ cơ sở theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, việc tổ chức đưa dân
từ đồng bằng lên mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp ở trung du và miền
núi là nhiệm vụ hết sức quan trọng để tổ chức lại lao động xã hội, phân bổ và
điều phối hợp lý lực lượng lao động giữa các vùng nhằm phát huy tốt nhất mọi khả
năng lao động cho xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng.
1- Dựa vào phương hướng, nhiệm vụ
phát triển sản xuất của từng địa phương, từng vùng và yêu cầu tổ chức lại sản
xuất, cải tiến quản lý nông, lâm nghiệp từ cơ sở và việc xây dựng cấp huyện
theo chỉ thị số 208 của Ban bí thư Trung ương Đảng ngày 16 tháng 9 năm 1974, cơ
quan lao động các địa phương cần giúp Uỷ ban hành chính xây dựng quy hoạch, kế
hoạch toàn diện về lao động gắn với nhiệm vụ phát triển sản xuất, thực hiện một
bước công tác kế hoạch hoá sức lao động để chủ động giảm dân số và lao động ở
các vùng đông dân thuộc đồng bằng; tăng dân số và lao động ở các vùng ít dân,
ít lao động ở trung du, miền núi. Trong việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch lao
động phục vụ mở rộng vùng kinh tế mới, cần chú ý một số vấn đề sau đây:
- Xác định được phương hướng,
nhiệm vụ và mức độ lao động phải chuyển bớt đi (ở tỉnh đồng bằng), hoặc lao động
cần nhận thêm đến (ở tỉnh trung du, miền núi, từ nay cho đến năm 1980 và kế hoạch
cụ thể cho từng năm... Việc này phải dựa vào ước tính tăng dân số, tăng lao động
để xác định được đúng đắn khả năng lao động tại chỗ và lập kế hoạch cân đối lao
động một cách toàn diện.
- Bảo đảm cân đối hợp lý số lượng,
chất lượng và cơ cấu lao động đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới, đồng thời bảo
đảm nhu cầu lao động để thâm canh, tăng năng suất, phát động trai trẻ, cần điều
động phục vụ kế hoạch kinh tế và quốc phòng của Nhà nước.
2- Về địa bàn đưa dân đi, nhận
dân đến.
a) Đối với nơi cần chuyển bớt
lao động đi.
Hiện nay, ở vùng đồng bằng (kể cả
đồng bằng khu 4 cũ, và đồng bằng các tỉnh trung du) có những vùng mức bình quân
diện tích theo đầu người thấp dưới 3 sào (Bắc bộ). Các hợp tác xã trong vùng
này thuộc diện phải chuyển bớt lao động, dân số đi xây dựng các vùng kinh tế mới.
Việc chuyển bớt dân đi phải tiến hành có trọng điểm, tập trung vào từng vùng, từng
huyện, xã, hợp tác xã, có nơi đi trước, nơi đi sau, không nên đi phân tán lẻ tẻ,
cũng không nên đưa đi ào ạt. Những nơi cần đưa bớt dân và lao động đi, trước hết
là nơi ruộng đất ít, người đông, sản xuất độc canh, ngành nghề không có điều kiện
phát triển. Cụ thể như sau:
- Mức bình quân diện tích canh
tác theo đầu người thấp so với mức bình quân chung trong tỉnh, điều kiện thiên
nhiên khó khăn, sản xuất kém, ngành nghề không phát triển được; nơi cần mở rộng
các công trình xây dựng cơ bản hoặc phải giải phóng lòng sông v.v...;
- Nơi đã tổ chức lại sản xuất, cải
tiến quản lý, đầu tư thêm cơ giới, do đó lao động dôi ra;
- Những nơi bình quân diện tích
canh tác theo đầu người có thấp so với mức bình quân chung trong tỉnh, nhưng sản
xuất có nhiều khó khăn (do điều kiện thiên nhiên, do trình độ sản xuất còn thấp)
đang tiến hành những biện pháp cải thiện điều kiện sản xuất: Cải tạo đất, xây dựng
thuỷ lợi, v. v... nếu chưa có điều kiện đưa đủ số lao động đi ngay thì nên tổ
chức đưa đi dần từng bước;
Những nơi bình quân diện tích
canh tác theo đầu người thấp, nhưng có nhiều nghề thủ công thì cần xem xét cụ
thể, nếu các nghề đó cần thiết cho nhu cầu của kế hoạch Nhà nước, có điều kiện ổn
định lâu dài thì tính số lao động đó vào kế hoạch cân đối ở địa phương; nếu là
nghề không ổn định, chuyển lao động lên miền núi sẽ phát triển tốt hơn thì cần
tính vào cân đối lao động cần chuyển đi;
- Ở các thành phố, thị xã, thị
trấn còn khá đông số người có khả năng lao động chưa làm việc, cần vận động tổ
chức đưa những gia định có đông lao động đi xây dựng vùng kinh tế mới theo tinh
thần Quyết định số 201-CP ngày 30 tháng 8 năm 1974 của Hội đồng Chính phủ và
Thông tư số 12-TT/LB ngày 24 tháng 3 năm 1975 của liên bộ Lao động - Công an.
Người số lao động phổ thông có thể vận động đưa đi cả lao động làm các ngành
nghề như nghề thủ công sử dụng nguyên liệu song, mây, tre, nứa... nghề xây dựng
cơ bản, sản xuất vật liệu xây dựng (mộc, nề, gạch, ngói, vôi), chế biến nông,
lâm sản, nghề phục vụ (may, cắt tóc...) sửa chữa công cụ (rèn cơ khí), sửa chữa
xe đạp, v.v...
Những nơi đã chuyển đi xây dựng
vùng kinh tế mới, Uỷ ban hành chính địa phương cần có kế hoạch tổ chức lại khu
dân cư để tận dụng đất đai cho sản xuất.
b) Đối với nơi tiếp nhận dân đến:
Trung du và miền núi là nơi tiếp
nhận lao động đến xây dựng vùng kinh tế mới phải chú trọng những vấn đề sau
đây:
Trước hết cần xác định rõ được
phương hướng, nhiệm vụ và quy hoạch xây dựng vùng kinh tế mới trong tỉnh đã được
cấp trên xét duyệt. Đi đôi với quy hoạch kinh tế, phải lập quy hoạch lao động một
cách toàn diện và kế hoạch xin điều động thêm lao động hàng năm, từng quý. Kế
hoạch đó cần cụ thể về nhu cầu lao động, cần bổ sung về số lượng, chất lượng và
cơ cấu lao động (lao động có nghề, lao động kỹ thuật, lao động phổ thông, lao động
trực tiếp sản xuất, lao động phục vụ sản xuất; tỷ lệ nam, nữ, v.v...). Đồng thời
phải chuẩn bị tốt sản xuất, điều kiện sinh hoạt và phúc lợi, đảm bảo đời sống
người lao động (nơi ăn, ở, chữa bệnh, giữ trẻ, nơi học cho trẻ em, v.v...) ngay
trước khi đón dân lên.
Trên cơ sở quy hoạch đất đai và
lao động tính số nhân khẩu mà xây dựng quy hoạch khu dân cư, xây dựng các công
trình phúc lợi công cộng của vùng kinh tế mới.
3- Về quan hệ kết nghĩa giữa tỉnh
ở đồng bằng và tỉnh ở trung du, miền núi trong việc đưa dân đi xây dựng vùng
kinh tế mới.
Mối quan hệ kết nghĩa giữa tỉnh ở
đồng bằng và tỉnh ở trung du, miền núi phải thể hiện trong việc phân công trách
nhiệm giữa hai bên, đảm bảo việc chỉ đạo thực hiện đầy đủ chính sách và kế hoạch
đưa dân đi và tiếp nhận dân đến xây dựng vùng kinh tế mới. Giữa hai tỉnh cần có
kế hoạch phân công cụ thể để cùng nhau phụ trách từ khi bắt đầu đến khi hoàn chỉnh
nhiệm vụ này, bao gồm: Việc chuẩn bị tổ chức đưa dân đi, đón dân đến, bố trí sắp
xếp cán bộ các ngành, thực hiện kế hoạch phát triển sản xuất và thi hành các chế
độ chính sách đối với vùng kinh tế mới.
Các tỉnh kết nghĩa cần thành lập
một bộ phận phụ trách các công việc chỉ đạo xây dựng vùng kinh tế mới.
Trước khi đưa dân đi hai bên phải
cùng nhau tiến hành kiểm tra xem xét lại địa bàn về mọi mặt: chuẩn bị sản xuất,
tổ chức đời sống... Nếu thấy chuẩn bị chưa tốt thì chưa nên đưa dân đi. Chú ý
hoàn thành sớm và tốt việc chuẩn bị để có thể đưa lao động đến cho khớp với thời
vụ sản xuất ở vùng kinh tế mới.
II- VỀ ĐỐI TƯỢNG,
CƠ CẤU LAO ĐỘNG ĐƯA ĐI VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT LAO ĐỘNG HỖ TRỢ ĐỐI VỚI VÙNG KINH TẾ
MỚI
1- Về đối tượng và cơ cấu lao động
đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Việc đưa lao động đi xây dựng
vùng kinh tế mới là đi cả gia đình; chú ý những gia đình có nhiều lao động;
cũng có thể tách một bộ phận lao động trong gia đình để lập ra một gia đình
riêng đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Trên cơ sở tính toán toàn diện,
đúng đắn các nhu cầu lao động cho nơi đưa lao động đi và nơi lập vùng kinh tế mới
mà xác định đối tượng cụ thể cần đưa đi. Phải chú ý đến đặc điểm lao động hiện
có mà xác định tỷ lệ thích đáng các loại lao động về số lượng, chất lượng nghề
nghiệp, nam, nữ, lứa tuổi, lao động trẻ khoẻ. Song cũng không nên gò ép một
cách cứng nhắc về tỷ lệ. Ngoài số lao động phổ thông cho nông nghiệp, lâm nghiệp,
cần chú ý đưa đi cả lao động có kỹ thuật (công nghiệp, thủ công nghiệp...) và
cán bộ các loại cần thiết cho vùng kinh tế mới. Chú ý đưa đi một số thợ mộc, nề,
rèn... để đáp ứng yêu cầu xây dựng các công trình công cộng, nhà ở phục vụ cho
sản xuất và đời sống. Không đưa những hộ độc thân, già yếu, gia đình neo đơn
lên vùng kinh tế mới. Trường hợp hộ độc thân có sức lao động và tình nguyện thì
cũng có thể đưa đi.
2- Về việc đưa lao động đi trước
chuẩn bị cơ sở để đưa gia đình lên theo.
Bộ phận đi trước chuẩn bị gồm có
đại diện Uỷ ban hành chính huyện, xã và cán bộ trong bộ máy hợp tác xã mới (quản
trị, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, cán bộ đội sản xuất) đi trước nhận địa bàn hoạt
động của hợp tác xã (khu sản xuất, khu dân cư...) và làm thủ tục hành chính
(bàn giao hộ khẩu với địa phương) đăng ký tư cách pháp nhân cho hợp tác xã mới
v.v... Sau đó sẽ tuỳ theo tình hình và tiến độ xây dựng vùng kinh tế mới mà tổ
chức lao động, chủ gia đình (người khoẻ có kinh nghiệm sản xuất) lên tiếp theo
để nhận đất làm nhà, xây dựng những công trình phục vụ đời sống (giếng nước,
nhà vệ sinh) hoặc lao động tập thể sản xuất rau màu ngắn ngày cho kịp thời vụ.
Khi đã căn bản hoàn thành những công việc chuẩn bị trên thì có thể đón gia đình
lên. Thời gian chuẩn bị không nên kéo dài quá 3 tháng.
3- Về cách giải quyết đối với
lao động xây dựng những cơ sở vật chất và kỹ thuật quá khả năng của hợp tác xã
và lao động hỗ trợ.
a) Lao động hỗ trợ:
Các tỉnh tiếp nhận dân đến xây dựng
vùng kinh tế mới cần vận động nhân dân địa phương tổ chức lao động hỗ trợ cho hợp
tác xã mới đến (lấy nguyên vật liệu làm nhà ở, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, mở các đường
giao thông trong phạm vi hợp tác xã, v.v...).
Các tỉnh có dân đi cần cử một số
lao động khoẻ mạnh, có tinh thần trách nhiệm biết xây dựng cơ bản để giúp vào
việc làm trên. Những người đi hỗ trợ cho vùng kinh tế mới được hợp tác xã ở đồng
bằng thống nhất quản lý phân phối theo hướng dẫn của Ban quản lý hợp tác xã thuộc
Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương.
b) Đối với những cơ sở vật chất
và kỹ thuật lớn hoặc tương đối lớn do Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn, thì các tỉnh
có dân đi xây dựng vùng kinh tế mới cần tăng cường vận động lao động trong địa
phương đi làm hợp đồng lao động theo tinh thần thông tư số 184-TTg ngày 16
tháng 7 năm 1974 của Thủ tướng Chính phủ cho các ngành có yêu cầu về lao động để
xây dựng các công trình như: Các công trình thuỷ lợi đầu mối, các trục đường
giao thông chính trong vùng kinh tế mới, mở đường lâm nghiệp, làm trường học, bệnh
viện, v.v...
4- Bồi dưỡng kinh nghiệm sản xuất
cho lao động mới lên vùng kinh tế mới.
Các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp
cần cử cán bộ có năng lực tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn ngay một số kinh nghiệm
cần thiết và sản xuất ở miền núi thích hợp với từng loại lao động mới lên theo
ngành nghề được phân công bằng hình thức mở lớp chuyên đề ngắn ngày, tập huấn tại
chỗ.
III- VỀ PHÂN
BỔ VÀ TỔ CHỨC LAO ĐỘNG ĐƯA LÊN VÙNG KINH TẾ MỚI
Căn cứ vào quy hoạch và nhiệm vụ
kế hoạch sản xuất của vùng kinh tế mới đã được trên duyệt, đồng thời căn cứ vào
quy định về tổ chức các loại hình hợp tác xã (nông nghiệp, nông-lâm, lâm-nông,
thủ công nghiệp, độc lập, xen ghép, v.v...) và về quy mô hợp tác xã các loại mà
xác định việc phân bổ và tổ chức lao động đưa lên vùng kinh tế mới. Uỷ ban Nông
nghiệp Trung ương sẽ có quy định riêng về loại hình và quy mô hợp tác xã cho
vùng kinh tế mới.
Lao động đưa lên, nói chung,
không nên phân tán quá nhỏ mà nên phân bổ một cách tập trung hợp lý kết hợp
theo ngành và theo lãnh thổ, bảo đảm cân đối giữa các ngành và các vùng (tiểu
vùng).
Việc tổ chức quản lý lao động
trong nội bộ các hợp tác xã ở vùng kinh tế mới, phải căn cứ vào loại hình hợp
tác xã, nhiệm vụ sản xuất của hợp tác xã và quy mô các ngành nghề trong hợp tác
xã mà tổ chức ra các đội, tổ theo hướng chuyên môn hoá kết hợp sử dụng tổng hợp
sức lao động. Mặt khác, cần phải dựa vào tính chất từng loại công việc để bố
trí phân công cho phù hợp với khả năng của từng lao động. Nếu lập hợp tác xã độc
lập, thì bộ máy lãnh đạo hợp tác xã (quản trị, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, cán bộ
chỉ huy đội sản xuất, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ...) và quy mô, cơ cấu các loại
đội, tổ phải bố trí trước khi đưa lên vùng kinh tế mới. Nếu xen ghép với hợp
tác xã địa phương, thì tuỳ theo hình thức xen ghép đội, tổ hoặc xen ghép hộ mà
bố trí cán bộ đội, tổ hoặc cử cán bộ tham gia công tác quản lý đội của hợp tác
xã địa phương. Chú ý xây dựng tinh thần đoàn kết giữa đồng bào vùng xuôi lên và
đồng bào địa phương.
Các hợp tác xã mới lập, cần kịp
thời xây dựng và áp dụng các chế độ, chính sách về lao động để có thể sớm đưa
công tác tổ chức, quản lý lao động trong hợp tác xã vào nền nếp, phù hợp với
tình hình thực tế ở vùng kinh tế mới trong từng thời kỳ. Ngoài các chế độ về tổ
chức lao động, phân phối theo lao động, còn cần phải chú ý thi hành chế độ,
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và an toàn lao động, đảm bảo cho
người lao động yên tâm phấn khởi sản xuất và ổn định lâu dài ở vùng kinh tế mới.
IV- MỘT SỐ VẤN
ĐỀ CỤ THỂ VỀ CHÍNH SÁCH
1- Chế độ dân công nghĩa vụ.
Thời gian được miễn nghĩa vụ dân
công ba năm đầu là tính từ ngày người lao động bắt đầu chuyển đến vùng kinh tế
mới (kể cả thời gian đi chuẩn bị trước). Thời gian những người được tạm miễn
trùng vào thời gian này thì cũng chỉ được tính thời gian được tạm miễn là ba
năm (ví dụ: Một người đã được tạm miễn một năm thì chỉ còn được miễn hai năm nữa).
Những thanh niên khi chuyển đến
vùng kinh tế mới chưa đến tuổi làm nghĩa vụ dân công (như mới 17 tuổi), thì khi
đến tuổi làm nghĩa vụ dân công, thời gian được miễn phải trừ thời gian mới đến
vùng kinh tế mới chưa đến tuổi làm nghĩa vụ dân công, (ví dụ: Một thanh niên đến
vùng kinh tế mới năm 17 tuổi, sau đó một năm đến tuổi làm nghĩa vụ dân công thì
thời gian được miễn chỉ là hai năm).
Quy định thời gian tạm miễn
nghĩa vụ dân công là nhằm giúp cho người lao động đến cơ sở mới có điều kiện tập
trung vào việc ổn định nơi ăn, ở, nơi sản xuất và mở mang đường giao thông, làm
thuỷ lợi trong phạm vi hợp tác xã.
Ngay sau khi nhân dân chuyển đến
vùng kinh tế mới, Uỷ ban hành chính nơi đó phải nắm chắc danh sách những người
trong độ tuổi lao động có sức lao động và hướng dẫn chấp hành nghiêm chỉnh các
chính sách đã quy định như đăng ký lao động, làm sổ lao động, cấp thẻ lao động
theo Nghị định số 97-CP ngày 2 tháng 5 năm 1974 của Hội đồng Chính phủ và Thông
tư số 4-LĐ/TT ngày 15 tháng 2 năm 1975 của Bộ Lao động.
2- Vấn đề tuyển sinh, tuyển lao
động ở vùng kinh tế mới.
Những lao động chuyển đến vùng
kinh tế mới nếu có đủ tiêu chuẩn quy định vẫn được tuyển sinh, tuyển lao động
vào các ngành Nhà nước một cách công bằng hợp lý. Việc tuyển đối với các hợp
tác xã mới ở vùng xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới trong những năm đầu chỉ thực
hiện ở những hợp tác xã đã được ổn định về sản xuất và nơi ăn, ở, và theo sự hướng
dẫn của cơ quan lao động.
3- Đối với gia đình của những
người đã lên trung du, miền núi làm nông, lâm nghiệp từ những năm trước và từ
nay về sau.
Những người đã lên trung du, miền
núi làm nông, lâm nghiệp là kể cả cán bộ, công nhân viên chức và xã viên các hợp
tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp... nếu gia đình (vợ, chồng, con
đẻ, con nuôi, con riêng, bố mẹ và những người thân thích khác mà người cán bộ,
công nhân, viên chức, xã viên phải trực tiếp nuôi dưỡng) ở đồng bằng xin lên
làm ăn, sum họp với người nhà thì được hưởng các chế độ trợ cấp như sau:
a) Đối với gia đình cán bộ, công
nhân, viên chức:
- Nếu người lên có đủ tiêu chuẩn
và Nhà nước có yêu cầu thì được xét tuyển dụng vào làm việc trong cơ quan, xí
nghiệp cùng với người nhà, hoặc được giúp đỡ làm hợp đồng lao động cho cơ quan,
xí nghiệp theo tinh thần Thông tư số 184-TTg ngày 16 tháng 7 năm 1974 của Thủ
tướng Chính phủ, hoặc đưa vào lao động sản xuất trong hợp tác xã nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủ công nghiệp gần nhất;
- Được trợ cấp ban đầu một lần
30đ cho gia đình theo điểm a mục 1 trong phần II của Thông tư số 7-LĐ/TT ngày 1
tháng 3 năm 1975 của Bộ lao động hướng dẫn thi hành Quyết định số 292-CP ngày
31 tháng 12 năm 1974 của Hội đồng Chính phủ và cấp tiền tàu xe, cước phí hành
lý, tiền ăn đường, trợ cấp tiền làm nhà riêng theo điểm d mục 1 phần II trong
Thông tư số 7-LĐ/TT nói trên.
b) Đối với gia đình xã viên các
hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủ công nghiệp.
- Được chính quyền địa phương (Uỷ
ban hành chính xã) đưa vào lao động sản xuất trong hợp tác xã cùng với người
nhà. Nếu có đủ tiêu chuẩn và cơ quan có yêu cầu thì cũng được xét tuyển dụng
như các lao động khác ở địa phương;
- Được trợ cấp tiền tàu xe, cước
phí hành lý và tư liệu sản xuất, thuốc phòng bệnh khi đi đường, trợ cấp khó
khăn, tiền để có thêm điều kiện làm nhà và cơ sở chăn nuôi theo điểm 1, 2 và 3
trong mục B thông tư liên bộ Tài chính - Ngân hàng - Uỷ ban Nông nghiệp Trung
ương - Tổng cục Lâm nghiệp số 03 ngày 4 tháng 2 năm 1975 hướng dẫn thi hành Quyết
định số 129-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 25 tháng 5 năm 1974.
Về lương thực được cấp theo điểm
b mục 2 phần I thông tư liên bộ Lương thực thực phẩm - Uỷ ban Nông nghiệp Trung
ương số 3 ngày 30 tháng 1 năm 1975.
Những người đi lẻ tẻ nói trên chỉ
được hưởng các chế độ chính sách hiện hành đối với người dân đi xây dựng vùng
kinh tế mới, khi có giấy tờ hợp lệ của Uỷ ban hành chính nơi đi cấp (giấy chứng
nhận cho đi, giấy chuyển hộ khẩu, chuyển lương thực, chuyển lao động...), thực
hiện đầy đủ đăng ký ở nơi mới đến và phải nhận làm việc ở cơ quan, xí nghiệp
nông, lâm trường hoặc cơ sở sản xuất tập thể do Uỷ ban hành chính nơi nhận bố
trí.
V- TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC CƠ QUAN NÔNG, LÂM NGHIỆP, LAO ĐỘNG CÁC CẤP VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH CÁC TỈNH,
THÀNH ĐỐI VỚI VIỆC ĐƯA DÂN ĐI XÂY DỰNG CÁC VÙNG KINH TẾ MỚI
Ở cấp Trung ương:
a) Uỷ ban Nông nghiệp Trung
ương, cơ quan chủ trì giúp Trung ương chỉ đạo cuộc vận động đưa dân đi xây dựng
các vùng kinh tế mới, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch Nhà nước về phát triển
nông, lâm nghiệp, có trách nhiệm cùng với Tổng cục Lâm nghiệp hướng dẫn các tỉnh,
thành xây dựng quy hoạch kế hoạch lao động trình Chính phủ duyệt; chỉ đạo việc
tổ chức đưa dân đi hoặc tiếp nhận dân đến và việc thực hiện các chế độ, chính
sách về lao động và tiền lương trong các vùng kinh tế mới; tổ chức đào tạo công
nhân kỹ thuật, bồi dưỡng nghề nghiệp cho lao động vùng kinh tế mới.
b) Tổng cục Lâm nghiệp, có trách
nhiệm tham gia cùng Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương hướng dẫn các tỉnh, thành thực
hiện các công việc kể trên.
c) Bộ Lao động, cơ quan Trung
ương của Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước về
công tác quản lý lao động xã hội và tiền lương căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp của Nhà nước, tham gia với Uỷ ban Nông nghiệp
Trung ương, Tổng cục Lâm nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước xây dựng quy hoạch
lao động và kế hoạch điều lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới; phân bổ chỉ
tiêu cụ thể các nhu cầu tuyển lao động, huy động lao động hợp đồng cho các vùng
kinh tế mới và giúp Chính phủ đôn đốc thực hiện các kế hoạch đó; nghiên cứu các
chế độ chính sách chung về nghĩa vụ lao động, hợp đồng lao động và các chế độ
tiền lương, phụ cấp, tiền công, bảo hộ lao động, v.v... đối với khu vực quốc
doanh và tập thể trong các vùng kinh tế mới; thanh tra và hướng dẫn, đôn đốc việc
chấp hành các chế độ chính sách chung về quản lý lao động xã hội và tiền lương
theo chức năng nhiệm vụ của ngành đã được quy định trong Nghị định số 172-CP
ngày 1 tháng 11 năm 1973 của Hội đồng Chính phủ.
Ở cấp tỉnh:
a) Uỷ ban hành chính các tỉnh,
thành:
Uỷ ban hành chính các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp chịu trách nhiệm trước Hội đồng Chính
hủ thực hiện việc xây dựng các vùng kinh tế mới, có trách nhiệm chỉ đạo phối hợp
các ngành: Uỷ ban Nông nghiệp, Ty lâm nghiệp, Ty lao động, Uỷ ban kế hoạch và
các ngành có liên quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch lao động cho từng vùng kinh
tế mới trong tỉnh, trực tiếp chỉ đạo việc đưa dân đi hoặc tiếp nhận dân đến xây
dựng các vùng kinh tế mới giữa hai tỉnh kết nghĩa; hướng dẫn, đôn đốc thực hiện
các chế độ, chính sách về lao động và tiền lương; theo định kỳ báo cáo tình
hình xây dựng vùng kinh tế mới lên Chính phủ đồng gửi cho Uỷ ban Nông nghiệp
Trung ương, Tổng cục Lâm nghiệp và Bộ Lao động để theo dõi và tổng hợp chung.
b) Uỷ ban nông nghiệp, Ty lâm
nghiệp, Ty Lao động:
- Uỷ ban nông nghiệp tỉnh, cơ
quan chủ trì giúp Uỷ ban hành chính tỉnh chỉ đạo cuộc vận động đưa dân đi xây dựng
các vùng kinh tế mới, có trách nhiệm cùng với Ty lâm nghiệp và các ngành có
liên quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch lao động, tổ chức việc đưa dân đi hoặc
tiếp nhận dân đến giữa hai tỉnh kết nghĩa; hướng dẫn và đôn đốc thực hiện các
chế độ, chính sách về lao động và tiền lương, tổ chức ổn định đời sống của người
lao động ở các vùng kinh tế mới trong tỉnh.
- Ty lâm nghiệp có trách nhiệm
tham gia cùng Uỷ ban nông nghiệp tỉnh các công việc kể trên.
- Các Sở, Ty lao động, có trách
nhiệm tích cực tham gia với Uỷ ban nông nghiệp, Ty lâm nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước xây dựng quy hoạch, kế hoạch đưa lao động đi hoặc tiếp nhận lao động đến
nhằm bảo đảm phương hướng phân bổ, điều phối lao động và sử dụng hợp lý lao động
xã hội trong tỉnh; đôn đốc việc tuyển dụng lao động, huy động lao động hợp đồng,
lao động nghĩa vụ, phục vụ cho việc xây dựng vùng kinh tế mới theo chỉ tiêu kế
hoạch của Nhà nước và Bộ Lao động; kiểm tra việc đưa lao động đi hoặc tiếp nhận
lao động đến xây dựng vùng kinh tế mới ở địa phương, qua đó phát hiện, đề xuất
với Uỷ ban hành chính tỉnh, thành và các ngành có trách nhiệm kịp thời uốn nắn,
bổ khuyết.
Việc tổ chức đưa lao động từ đồng
bằng đi mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp ở trung du và miền núi là
vấn đề lớn có nhiều khó khăn, liên bộ yêu cầu Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành
phố nghiên cứu kỹ Quyết định số 129-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 25 tháng 5
năm 1974 và thông tư này, vận dụng vào tình hình cụ thể ở địa phương, có biện
pháp tích cực chỉ đạo tổ chức thực hiện cuộc vận động đưa dân đi xây dựng các
vùng kinh tế mới đạt kết quả tốt.
Lê
Chân Phương
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Đình Ngữ
(Đã
ký)
|
Trần
Quốc Mạnh
(Đã
ký)
|