HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
129-CP
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 05 năm 1974
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN TÍCH
PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP Ở TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14 tháng
7 năm 1960;
Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong hội nghị thường vụ của Hội đồng
Chính phủ ngày 10 tháng 4 năm 1974 về việc Nhà nước giúp đỡ các hợp tác xã phát
triển sản xuất nông, lâm nghiệp ở trung du và miền núi
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
– Nay ban hành, kèm theo quyết định này, bản quy định về chính sách đối với các
hợp tác xã mở rộng diện tích phát triển nông, lâm ở trung du và miền núi.
Điều 2.
– Những quy định đã ban hành trước đây trái với chính sách ban hành kèm theo
quyết định này đều bãi bỏ.
Điều 3. –
Các ông Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp trung ương, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm
nghiệp, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Bộ
Lao động và Bộ trưởng Bộ Lương thực và thực phẩm ra thông tư liên bộ hướng dẫn
chung việc thi hành chính sách này.
Mỗi ông Bộ trưởng phụ trách các
ngành có liên quan dưới đây cùng các ông Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp trung
ương và Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp ra thông tư liên bộ hướng dẫn thi
hành theo chính sách này về các mặt giao thông vận tải, thủy lợi, nội thương,
giá, y tế, giáo dục, văn hóa.
Điều 4.
– Các ông Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng
Chính phủ, các ông Chủ tịch Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
QUY ĐỊNH
VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ MỞ RỘNG DIỆN
TÍCH PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP Ở TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI
(Ban hành kèm theo Quyết định
số 129-CP, ngày 25-5-1974 của Hội đồng Chính phủ)
Để thực hiện nghị quyết Hội nghị
lần thứ 19 và nghị quyết lần thứ 22 của Ban chấp hành trung ương Đảng, việc mở
rộng diện tích phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp ở trung du và miền núi được
xúc tiến gấp, nhằm:
- Phân bố và sử
dụng hợp lý nhất sức lao động chưa được sử dụng tốt hiện nay ở đồng bằng và
trung du, miền núi;
- Phát huy ba thế mạnh của kinh
tế nông nghiệp miền núi, xây dựng các vùng kinh tế mới, góp phần củng cố quốc
phòng; đưa cả miền núi, trung du, đồng bằng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội;
- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
và lâm nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn mạnh của nền kinh tế quốc dân
về lương thực và thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu.
Được sự giúp đỡ của Nhà nước,
các hợp tác xã trong việc mở rộng diện tích phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp
ở trung du và miền núi, phải phấn đấu theo những yêu cầu và phương hướng sau
đây:
1. Phát huy đến mức cao nhất
tinh thần làm chủ tập thể, lao động cần cù và sáng tạo của giai cấp nông dân tập
thể, tự cường, tự xây dựng hợp tác xã, không ỷ lại vào Nhà nước, sẵn sàng chấp
nhận mọi khó khăn thử thách với tinh thần chiến đấu cách mạng cao.
2. Có kế hoạch mở rộng diện tích
canh tác, đồng thời đẩy mạnh thâm canh; kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với lâm
nghiệp, chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh bảo vệ rừng, khắc phục tệ phá rừng, bảo
vệ đất đai chống xói mòn, tạo ra những khu vực trù phú và trên cơ sở đó sinh cơ
lập nghiệp lâu dài.
3. Làm đúng quy hoạch, quy trình
kỹ thuật, bảo đảm hiệu quả kinh tế, làm cho các hợp tác giàu mạnh, góp phần
phát triển nền kinh tế quốc dân và đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước
nhà.
4. Thực hiện chính sách đoàn kết
dân tộc của Đảng, làm cho nhân dân các dân tộc tôn trọng và giúp đỡ nhau, cùng
nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau đây là nội dung chính sách.
I. GIAO ĐẤT,
GIAO RỪNG ĐỂ HỢP TÁC XÃ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ LÂM NGHIỆP
Đất đồi núi và rừng ở miền núi
và trung du thuộc quốc gia công thổ không ai được chiếm làm của riêng. Nhưng, để
các hợp tác xã có điều kiện phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh, Nhà nước
giao cho mỗi hợp tác xã một diện tích đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, trồng
cây gây rừng và mội hội xã viên một đất ít để sử dụng cho kinh tế phụ gia đình.
1. Mỗi hợp tác xã được giao diện
tích đồi núi hoặc diện tích rừng ở gần hợp tác xã để phát triển nông nghiệp và
lâm nghiệp theo tiêu chuẩn mỗi lao động nông, lâm nghiệp từ 1 đến 4 hécta, tùy
theo từng loại cây trồng và sản phẩm làm ra đòi hỏi nhiều hay ít công lao động
để sản xuất và chế biến.
2. Mỗi hộ xã viên được giao từ
700 đến 1000m2 đất làm nhà ở và trồng trọt, chăn nuôi thêm.
Trong phạm vi đất đai được Nhà nước giao cho hợp tác xã và các hộ xã viên, hợp
tác xã cần quy hoạch khu vực nhà ở cùng với đất dành cho kinh tế gia đình.
(Nếu đất đai mà tư nhân đã trồng
cây lâu năm vượt quá nhiều diện tích quy định trên đây, thì người đã đã trồng
có trách nhiệm chăm sóc, giữ gìn cây trồng và tiếp tục kinh doanh; hợp tác xã
phải kiểm tra để đảm bảo các cây trồng đó được chăm sóc, giữ gìn tốt; vấn đề
này sẽ được nghiên cứu giải quyết sau).
3. Sau khi giao đất, giao rừng
trong hạn từ 3 đến 7 năm, tùy theo đất và loại cây trồng, các đơn vị sản xuất
nông, lâm nghiệp (kể cả quốc doanh và hợp tác xã đã có hoặc mới xây dựng) phải
hết đất đai hoặc rừng ấy vào sản xuất theo kế hoạch, phải làm đúng quy hoạch,
quy trình kỷ thuật, thường xuyên bảo vệ, bồi bổ đất đai và rừng ấy; không được
bỏ hoang, bỏ hóa đất đai hoặc làm thiệt hại đến tài nguyên rừng. Nếu đơn vị hoặc
cá nhân được giao đất không làm đúng quy hoạch, quy trình kỹ thuật, hoặc quá thời
gian đã quy định mà không dùng hết đất, thì Nhà nước phân phối cho đơn vị khác,
người khác làm.
Các ngành có liên quan và Ủy ban
hành chính các cấp có trách nhiệm đôn đốc và kiểm tra các cơ sở được giao đất,
giao rừng thực hiện nghiêm chỉnh những quy định về sử dụng đất, nhất là quy định
về quản lý, bảo vệ rừng.
4. Đối với những đất có độ dốc từ
150 trở xuống, các hợp tác xã phải xây dựng thành ruộng hoặc nương bậc
thang để sản xuất các cây lương thực, thực phẩm và các cây trồng ngắn ngày
khác, phát huy đến mức cao nhất khả năng đảm bảo lương thực, thực phẩm tại chỗ
của các cơ sở sản xuất.
II- HỖ TRỢ
CHO CÁC HỢP TÁC XÃ CÓ THÊM VỐN ĐỂ KHAI HOANG MỞ RỘNG DIỆN TÍCH SẢN XUẤT
1. Các hợp tác xã được vay của
Nhà nước:
a) Được vay dài hạn không phải
trả lãi từ 500 đến 1000 đồng mỗi hécta xây dựng thành ruộng, nương bậc thang để
trồng trọt cây lương thực, thực phẩm, cây thức ăn cho chăn nuôi và các cây ngắn
ngày khác;
b) Được vay dài hạn không phải
trả lãi từ 800 đến 1200 đồng mỗi hécta trồng cây công nghiệp như chè, dứa, dâu
tằm…;
c) Được vay dài hạn không phải
trả lãi từ 200 đến 400 đồng cho mỗi hécta cây trồng ăn quả, cây công nghiệp,
cây lấy gỗ…;
d) Được vay dài hạn không phải
trả lãi từ 50 đến 60 đồng để chăm sóc, bảo vệ, tu bổ mỗi hécta rừng;
e) Được vay dài hạn không phải
trả lãi từ 50 đến 100 đồng để cải tạo mỗi hécta đồng cỏ đối với các hợp tác xã
chăn nuôi tập thể đại gia súc và có đồng cỏ cần cải tạo.
2. Theo đề nghị của cơ quan quản
lý nông, lâm nghiệp huyện, Phòng tài chính huyện và Chi điểm Ngân hàng Nhà nước
ở huyện, Ủy ban hành chính huyện căn cứ vào những định mức kinh tế kỹ thuật đối
với từng loại cây và từng loại đất để xác định kế hoạch khai hoang, mở rộng diện
tích và trồng mới, làm căn cứ cho việc xác định mức và thời hạn cho vay cụ thể ở
địa phương (theo các định mức kinh tế - kỹ thuật do Ủy ban Nông nghiệp trung
ương và Tổng cục Lâm nghiệp hướng dẫn). Mức và thời hạn cho vay phải được các
cơ quan nông nghiệp và lâm nghiệp cấp tỉnh kiểm tra và chuyền qua một Hội đồng
tín dụng gồm Ủy ban nông nghiệp tỉnh, Ty lâm nghiệp, Ty tài chính và Chi nhánh
này do Phó chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh phụ trách sản xuất nông nghiệp chủ
trì, có trách nhiệm giải quyết hoặc yêu cầu cấp trên giải quyết kịp thời những
yêu cầu chính đáng của các hợp tác xã.
3. Các hợp tác xã tích cực mở rộng
diện tích sản xuất, làm đúng quy hoạch và quy trình kỹ thuật quy định cho từng
loại đất và từng loại cây, và khi đi vào sản xuất đạt hiệu quả kinh tế, thì sẽ
được Nhà nước xét thưởng:
- Đối với các ruộng, nương bậc
thang để sản xuất các loại cây lương thực, thực phẩm ngắn ngày, sau khi đã xây
dựng thàh ruộng đất để sản xuất lâu bền và sản xuất được một phần đáng kể nhu cầu
lương thực của mình, thì hợp tác xã được Nhà nước xóa nợ.
- Đối với những cây ngắn ngày và
cây có vòng quay nhanh như chè, dứa, dâu tằm, đồng cỏ, v.v… sau khi đã xây dựng
đồng ruộng thành ruộng đất để sản xuất lâu bền, trồng đúng kỹ thuật và bắt đầu
có thu hoạch, thì Nhà nước căn cứ vào số lượng sản phẩm bán cho Nhà nước từng
năm mà xóa nợ dần và cho vay thêm vốn để mở rộng diện tích trồng mới; hợp tác
xã còn được vay thêm một số vốn lưu động, tùy theo yêu cầu sản xuất cụ thể và hợp
đồng bán nông, lâm cho Nhà nước.
- Đối với những cây dài ngày
(cây lấy gỗ, cây công nghiệp lưu niên …) thì sau khi trồng mới hoặc cải tạo tốt
(bảo đảm các mặt: tỷ lệ cây sống và xanh tốt, mật độ cay trồng, chế độ bảo vệ đất),
Nhà nước xóa nợ một nữa số tiền đã vay, nữa còn lại sẽ tiếp tục xóa dần khi bắt
đầu có sản phẩm bán cho Nhà nước theo kế hoạch.
4. Ngoài việc được vay để mở rộng
diện tích sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp nói ở trên hợp tác xã còn có thể
vay thêm vốn để kinh doanh các ngành khác theo chế độ chung. Các hợp tác xã phải
dùng vốn được vay vào việc trồng trọt và chăn nuôi theo đúng phương hướng sản
xuất mà Nhà nước quy định cho từng vùng và đúng với quy định về sử dụng đất đai
và rừng được Nhà nước giao; nếu hợp tác xã không làm đúng như trên, thì chính
quyền cấp huyện, cấp xã bắt buộc hợp tác xã phải sửa lại cho đúng, không làm
đúng thì phải trả lại số tiền đã vay.
Sản phẩm hàng hóa nông lâm nghiệp
do các hợp tác xã sản xuất ra theo quy hoạch và kế hoạch Nhà nước, phải bán cho
Nhà nước, và được Nhà nước mua theo giá cả hợp lý do Nhà nước quy định và công
bố. Những nơi điều kiện sản xuất đặc biệt khó khăn sẽ được hưởng khoản trợ cấp
giá. Nếu thực hiện vượt định mức bán, hợp tác xã sẽ được thưởng đối với phần
bán vượt ấy.
5. Những chính sách trên đây (đã
nói ở điểm 1, 2, 3 của mục I và các điểm 1, 2, 3, 4 của mục II) áp dụng cho các
hợp tác xã hiện có ở trung du và miền núi, cho các hợp tác xã và đồng bào vì định
canh định cư mà phải chuyển đến vùng mới, và các hợp tác xã của đồng bào miền
xuôi lên kinh doanh nông, lâm nghiệp ở trung du và miền núi.
III. VIỆC TỔ
CHỨC DI CHUYỂN TỪ MIỀN XUÔI LÊN KINH DOANH NÔNG, LÂM NGHIỆP Ở TRUNG DU MIỀN NÚI
VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DU CANH, DU CƯ.
1. Các hợp tác xã ở đồng bằng có
diện tích canh tác bình quân quá thấp (dưới 3 sào Bắc bộ một đầu người) có
nghĩa vụ đi xây dựng cơ sở mới ở trung du và miền núi. Những người lao động đi
xây dựng cơ sở mới cần được tổ chức thành những đội sản xuất, những hợp tác xã
nông – lâm nghiệp với quy mô mỗi hợp tác xã khoảng 200 lao động trở lên:
- Nếu là hợp tác xã quy mô lớn
(quy mô xã) có thể tách một phần lao động, tổ chức thành một hợp tác xã mới đi
xây dựng cơ sở sản xuất mới ở trung du miền núi.
- Nếu là mô nhỏ (quy mô thôn)
thì rút một phần lao động, tổ chức ra các đội đi xây dựng cơ sở mới; cá đội này
sẽ do xã hoặc huyện tập hợp lại và tổ chức thành hợp tác xã mới đi xây dựng cơ
sở sản xuất mới ở trung du, miền núi (không xáo trộn tổ chức của đội sản xuất).
Ngoài những lao động được tổ chức
thành hợp tác xã, thành đội sản xuất như trên, cần chú trọng giúp đỡ hoặc tổ chức
cho vợ con của những người đã lên trung du và miền núi làm nông, lâm nghiệp từ
những năm trước lên làm ăn và sum họp với nhau.
Trong thời gian đầu, chỉ nên đưa
những người lao động chính có tinh thần hăng hái, khỏe mạnh, am hiểu về nông
nghiệp đi xây dựng cơ sở mới; còn gia đình, nhất là các trẻ nhỏ và ông già, bà
già thì ở lại sinh hoạt với hợp tác xã cũ. Sau khi đã từng bước ổn định sản xuất
và đời sống ở cơ sở mới, sẽ đưa dần trẻ nhỏ và người già lên. Hợp tác xã miền
xuôi có người đi mở rộng diện tích kinh doanh nông, lâm nghiệp ở trung du, miền
núi có trách nhiệm bảo đảm công việc, lương thực, thực phẩm cho những người này
đến khi họ đi hẳn lên cơ sở mới.
2. Những người đi xây dựng cơ sở
mới trong thời gian đầu tiên phải đem theo lương thực đủ dùng trong vài ba
tháng, trong khi chờ cơ quan lương thực bố trí mạng lưới lương thực ở nơi xây dựng
mới.
Hợp tác xã phải chuyển phần
lương thực của những người đi xây dựng cơ sở mới vào nghĩa vụ bán lương thực
cho Nhà nước để Nhà nước phân phối cho những người này ở cơ sở mới.
3. Các hợp tác xã mới phải sử dụng
một cách hợp lý khả năng đất đai để sản xuất lương thực, thực phẩm; phát huy mức
cao nhất khả năng giả quyết lương thực, thực phẩm cho người và thức ăn gia súc
tại chỗ. Sau từng thời gian, Nhà nước sẽ căn cứ vào khả năng thực tế của sản xuất
và nhu cầu về lương thực của hợp tác xã mà giải quyết cụ thể vấn đề lương thực
đối với hợp tác xã.
4. Khi cơ sở mới đã tương đối ổn
định và gia đình của những xã viên đi xây dựng cơ sở mới cùng đi theo, việc xử
lý tài sản của họ được quy định như sau:
- Chủ hộ có quyền nhường tài sản
của mình cho bà con hoặc người cùng ở trong hợp tác xã, trong thôn , xã với
giá cả do hai bên thỏa thuận.
Hợp tác xã có trách nhiệm đứng
ra giúp đỡ thu xếp việc xử lý tài sản này; không được được để xảy ra tranh
giành mua bán hoặc bán không có ai mua, hoặc để cho một số người nhân việc mua
nhà mà chiếm thêm đất vườn, đất ở, trở ngại đến quy hoạch sản xuất của hợp tác
xã.
- Đất vườn thì giao lại cho hợp
tác xã dùng vào sản xuất, hợp tác xã phải hoàn bù một cách thỏa đáng các hoa lợi
trên đất, vườn ấy, nếu có.
- Ở những nơi mà đại bộ phận
nhân dân trong hợp tác xã hoặc trong cùng một xã cùng đi, thì chính quyền cấp
xã, cấp huyện phải chỉ đạo cụ thể việc xử lý tài sản theo tinh thần trên đây.
Tiền hoàn bù những tài sản chung của hợp tác xã ở quê cũ được chuyển cho hợp
tác xã mới để tăng thêm vốn kinh doanh.
5. Để đảm bảo yêu cầu hợp lý về
sản xuất và đời sống chung trong những vùng mới, Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn
xây dựng những cơ sở vật chất và kỹ thuật lớn hoặc tương đối lớn vượt quá khả
năng của hợp tác xã như: xây dựng công trình thủy lợi đầu mối đảm bảo nhu cẩu về
sản xuất và sinh hoạt chung trong vùng, trục giao thông chính, cửa hàng, cơ sở
chữa bệnh, trường học, … Những cơ sở này thuộc ngành nào thì ngành ấy phụ trách
và thống nhất trong quy hoạch và kế hoạch được Nhà nước xét duyệt cho từng
vùng.
6. Các hợp tác xã và xã viên ở
miền xuôi mới lên trung du, miền núi, được Nhà nước giúp thêm một số vốn để xây
dựng những cơ sở cần thiết như sau:
- Cho hợp tác xã vay dài hạn
không phải trả lãi từ 100 đến 150 đồng (tính trên mỗi hécta ruộng, nương bậc
thang và mỗi hécta trồng mới các loại cây dài ngày) để hợp tác xã có thêm vốn
xây dựng các cơ sở phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp và phúc lợi công cộng, như
sân phơi, nhà kho, chuồng trại chăn nuôi tập thể,…
Việc xét thưởng bằng cách xóa
khoản vay này sẽ do Ủy ban Nông nghiệp trung ương và Bộ Tài chính hướng dẫn cụ
thể.
- Trợ cấp (không phải trả lại)
cho mỗi cán bộ xã viên trong hợp tác xã từ 100 đến 200 đồng để xã viên có thêm
điều kiện xây dựng nhà ở và cơ sở chăn nuôi của gia đình; số tiền trợ cấp này
chỉ dùng vào mục đích trên đây, không được lợi dụng vào việc khác.
7. Nhân dân ở
miền xuôi lên trung du và miền núi mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp
và những đồng bào mới định canh, định cư được hưởng các quyền lợi về chính trị,
kinh tế, về phúc lợi cộng đồng (y tế, giáo dục, văn hóa …), và có nghĩa vụ như
nhân dân ở đấy; trong ba năm đầu, được cấp thuốc phòng bệnh ở từng vùng (do Bộ
Y tế quy định cụ thể), được miễn bệnh viện phí (nếu ốm phải nằm viện), được miễn
nghĩa vụ công dân, nếu thuộc diện phải làm nghĩa vụ công dân; con em cùng đi
theo đuợc học miễn phí.
Khi đến cơ sở mới. nhân dân miền
xuôi lên trung du và miền núi mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp được
mua áo rét, chăn, màn mà không phải tính vào tiêu chuẩn được cung cấp vải; được
trợ cấp trong việc vận chuyển người, hành lý và đồ dùng gia đình, lương thực và
thực phẩm mang theo; được chăm sóc y tế đi đường không phải trả tiền.
Đối với những hợp tác xã có nhiều
khó khăn trong việc tổ chức đưa dân đi, Nhà nước giúp đỡ thêm một số phương tiện
sinh hoạt. Bộ Tài chính, Ủy ban Nông nghiệp trung ương và Tổng cục Lâm nghiệp sẽ
quy định cụ thể.
IV. TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC TỈNH ĐỒI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ MỚI
1. Trong việc đưa người lên xây
dựng cơ sở mới ở trung du và miền núi, mỗi tỉnh đồng bằng kết hợp vói một hay
hai tỉnh trung du hoặc miền núi.
Đối với những tỉnh vừa có đồng bằng,
vừa có trung du, miền núi, thì tổ chức kết nghĩa giữa các huyện đồng bằng và các
huyện trung du, miền núi trong tỉnh.
2. Theo đúng kế hoạch mà hai tỉnh
đã thỏa thuận và được trung ương duyệt, tỉnh đồng bằng và trung du, miền núi chịu
trách nhiệm trước trung ương từ khi bắt đầu đến khi hoàn thành kế hoạch chuyển
dân đi, tổ chức việc tiếp nhận, xây dựng cơ sở mới cho sản xuất và đời sống. Cụ
thể là:
a) Các tỉnh đồng bằng có người
đi phải cử một số cán bộ, công nhân có kinh nghiệm lên cùng với tỉnh kết nghĩa
tiến hành quy hoạch nông, lâm nghiệp ở từng vùng và chuẩn bị các điều kiện để đưa
người đến (chỗ ở tạm, công cụ, giống …) Trong khi chuẩn bị thành lập cho hợp
tác xã mới mở thêm diện tích kinh doanh mới, các tỉnh đồng bằng phải lấy một số
cán bộ trong biên chế của mình và cán bộ có kinh nghiệm của hợp tác xã, thành
khung cán bộ quản lý hợp tác xã.
b) Các tỉnh trung du, miền núi
căn cứ vào quy hoạch mở rộng diện tích phát triển sản xuất và vốn đầu tư được
Chính phủ duyệt, lập kế hoạch cụ thể để thực hiện từng bước; khi giao đãt, giao
rừng để hợp tác xã kinh doanh, phải kèm theo các định mức cho vay vốn, định mức
sản phẩm trên mỗi hécta hợp tác xã phải bán cho Nhà nước, lấy đó làm mục tiêu
thúc đẩy hợp tác xã thực hiện kế hoạch.
3. Tùy theo số dân đưa lên, các
tỉnh đồng bằng có dân đi phải tách ra một số cán bộ kinh tế, kỹ thuật, văn hóa,
giáo dục, … đưa lên tăng cường cho tỉnh kết nghĩa.
Nhận được số cán bộ này, các tỉnh
trung du, miền núi phải tổ chức và quản lý chặt chẽ việc mở rộng diện tích phát
triển nông, lâm nghiệp và tăng cường quản lý hợp tác xã ở cơ sở mới, và phải mở
rộng mạng lưới thương nghiệp, y tế, giáo dục, văn hóa,… một cách tương ứng.
Cán bộ trong biên chế Nhà nước
trực tiếp công tác ở các hợp tác xã được hưởng nguyên lương và phụ cấp khu vực
theo chế độ chung.
Chính phủ sẽ ban hanh chính sách
nhằm tạo điều kiện và khuyến khích cán bộ, công nhân lên công tác lâu dài ở
trung du và miển núi.