Thông tư 2089-P/4 năm 1946 về bảo đảm tự do cá nhân do Bộ Tư Pháp ban hành.
Số hiệu | 2089-P/4 |
Ngày ban hành | 26/06/1946 |
Ngày có hiệu lực | 11/07/1946 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp |
Người ký | Nguyễn Văn Hưởng |
Lĩnh vực | Quyền dân sự |
BỘ
TƯ PHÁP |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 2089-P/4 |
Hà Nội, ngày 26 tháng 06 năm 1946 |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp gửi các ông Chưởng Lý tòa thượng thẩm Hà Nội, Huế, Sài Gòn
Trong việc thi hành sắc lệnh số 40 ngày 29 tháng 3 năm 1946 về bảo đảm tự do cá nhân, Bản bộ cần phải giải thích thêm để việc thi hành được dễ dàng và đúng với ý định của hội đồng Chính phủ.
Thí dụ có người can làm giấy bạc giả, bị giam cứu từ 20 tháng 2 năm 1946 thì thời hạn 3 tháng nói ở điều thứ 3-2 bắt đầu từ 2 tháng 4 năm 1946 nghĩa là từ ngày mà chiếu theo điều thứ 23 sắc lệnh số 40 được phát thanh chậm cho toàn quốc.
Việc hoãn lâu có cái hại là nếu bị cáo kháng cáo hai mệnh lệnh của dự thẩm trong một việc tiểu hình thì có thể hết hạn 3 tháng. Nếu hết hạn 3 tháng mà việc chưa dự thẩm xong thì bắt buộc phải tha bị cáo ra, tuy việc rất can hệ.
Vậy yêu cầu các phòng luận tội xử cho chóng các mệnh lệnh của dự thẩm.
Thí dụ bị can bị bắt hôm 10 tháng 5 thì hôm 10 tháng 6 phải đem ra xử tại phiên tòa, nếu hôm ấy bị can hoặc luật sư xin hoãn để nại thêm chứng hay vì một lý do gì khác thì tòa án có thể hoãn đến một phiên khác. Tòa án có quyền vẫn giam giữa bị can hoặc cho bị can được tại ngoại.
Ngoài trường hợp thường nói trên đây, nếu có quyết nghị gia hạn giam (điều thứ tư) thì nếu là việc tiểu hình mà gia hạn một lần thì bị can phải được đưa ra tòa để xử chậm nhất là 60 ngày sau khi bị bắt.
Nói tóm lại, chữ “xử” nghĩa là ngày mà ông biện lý đưa bị can ra tòa xử chứ không phải là ngày mà tòa phải tuyên án xong (iugement définitif).
|
THỪA
LỆNH BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP |