Thông tư 17-TC/QLNS-1976 về việc lập tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1976 do Bộ Tài Chính ban hành

Số hiệu 17-TC/QLNS
Ngày ban hành 13/11/1976
Ngày có hiệu lực 28/11/1976
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Dương Văn Dật
Lĩnh vực Tài chính nhà nước

BỘ TÀI CHÍNH
******

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc

******

Số : 17-TC/QLNS

Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 1976

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC LẬP TỔNG QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1976

Công tác quyết toán ngân sách là việc làm thường xuyên và có tính chất bắt buộc đối với tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế các địa phương có thu, chi ngân sách Nhà nước, theo đúng Điều lệ về lập và chấp hành ngân sách Nhà nước trong Nghị định số 168-CP ngày 20-10-1961 của Hội đồng Chính phủ.

Ngân sách Nhà nước năm 1976 là ngân sách thống nhất đầu tiên của cả nước. Việc lập tổng quyết toán ngân sách phải được thi hành thống nhất trong cả nước, đảm bảo tổng hợp kịp thời, chính xác các hoạt động về kinh tế và chấp hành ngân sách của các ngành, các địa phương trong toàn quốc và tiến hành theo nội dung và thời hạn thống nhất. Đồng thời, công tác quyết toán ngân sách năm nay phải góp phần thiết thực vào việc đúc kết được những bài học bổ ích về việc lập và chấp hành kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước vừa qua để tăng cường quản lý kinh tế tài chính trong năm 1977 đối với các đơn vị.

Do đó, Bộ Tài chính hướng dẫn thêm một số điểm để tổng quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1976 để các ngành, các địa phương, các đơn vị thi hành.

I. MỘT SỐ VĂN BẢN CHÍNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH

Các văn bản của Nhà nước đã ban hành về công tác quyết toán bao gồm:

1. Nghị định số 168-CP ngày 20-10-1961 của Hội đồng Chính phủ về điều lệ và chấp hàng ngân sách Nhà nước (a)

2. Nghị định số 175-CP ngày 28-10-1961 của Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước (b)

3. Thông tư số 27-TC/TDT  ngày 2-11-1966 ban hành chế độ kế toán tổng kế toán (c)

4. Quyết định số 3-TC/TDT ngày 30-3-1972 của Bộ Tài chính ban hành chế độ kế toán đơn vị dự toán (d)

Liên Bộ Tài chính – Ngân hàng Nhà nước trung ương cũng mới ban hành thông tư về việc khóa sổ thu chi ngân sách cuối năm 1976 tại các cơ quan ngân hàng Nhà nước các cấp trong cả nước.

Yêu cầu các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố kết hợp phổ biến hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt những điều quy định trong thông tư đó cùng với thông tư này, tạo điều kiện để làm tốt công tác quyết toán ngân sách năm 1976.

II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỤ THỂ ĐỐI VỚI QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NĂM 1976

1. Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ tổng hợp quyết toán của tất cả các đơn vị trực thuộc hoạt động ở cả hai miền để lập quyết toán toàn ngành có phân biệt:

- Những đơn vị đóng từ Quảng nam – Đà nẵng trở vào Nam lập quyết toán bằng tiền miền Nam, có quy ra tiền miền Bắc, theo biểu mẫu đính kèm. Quyết toán này phải có xác nhận của ngân hàng Nhà nước cơ sở nơi đơn vị giao dịch về số kinh phí đã được cấp phát trong năm và gửi về cơ quan chủ quản ở miền Nam để xem xét tổng hợp đối chiếu lấy chữ ký xác nhận của cơ quan Bộ Tài chính tại thành phố Hồ Chí Minh, rồi kèm theo nhận xét gửi về Bộ chủ quản ở Hà nội.

- Những đơn vị đóng từ Bình trị thiên trở ra Bắc lập quyết toán bằng tiền miền Bắc, theo các biểu mẫu đã quy định trong chế độ kế toán đơn vị dự toán (ban hành kèm theo Quyết định số 3-TC/TDT ngày 30-3-1972 của Bộ Tài chính)

- Quyết toán tổng hợp của Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ phải lập riêng phần bằng tiền miền Bắc, phần bằng tiền miền Nam quy ra tiền miền Bắc, phần bằng tiền miền Nam quy ra tiền miền Bắc và tổng hợp bằng tiền miền Bắc và cũng theo đúng các biểu mẫu trong chế độ kế toán đơn vị dự toán nói trên.

2. Về chi kiến thiết cơ bản: Năm 1976, có tình trạng một công trình ở miền Nam hay ở miền Bắc, được cấp phát vừa bằng tiền miền Nam, vừa bằng tiền miền Bắc. Nay thống nhất phương pháp thanh toán và quyết toán như sau:

Nguyên tắc chung là số tiền cấp phát ở đâu, do ngân hàng kiến thiết thanh toán thì quyết toán với ngân sách ở đó. Nhưng khi quyết toán toàn bộ công trình thì phải tổng hợp toàn bộ số tiền đã được cấp phát ở cả hai miền cho công trình đó, số được cấp ở miền Nam bằng tiền miền Nam phải quy ra tiền miền Bắc để tổng hợp chung bằng tiền miền Bắc.

Cụ thể là:

- Số tiền trợ cấp ở miền Bắc, bằng tiền miền Bắc, để chi cho tất cả các công trình xây dựng (kể cả công trình ở miền Nam) thì ngân hàng kiến thiết trung ương có nhiệm vụ thanh toán và quyết toán với Bộ Tài chính (ở Hà Nội).

- Số tiền trợ cấp ở miền Nam, bằng tiến miền Nam để chi cho tất cả các công trình (kể cả các công trình ở miền Bắc) thị bộ phận ngân hàng kiến thiết miền Nam có trách nhiệm thanh toán và quyết toán với Bộ Tài chính miền Nam (tại thành phố Hồ Chí Minh).

Ngoài việc lập bản thanh toán và quyết toán số vốn cấp phát cả năm 1976 (như vẫn làm hiện nay). Ngân hàng kiến thiết trung ương có nhiệm vụ tổng hợp quyết toán số vốn đã cấp phát về xây dựng cơ bản trong cả nước phần bằng tiền miền Bắc, phần bằng tiền miền Nam quy ra tiền miền Bắc và cuối cùng tổng hợp bằng tiền miền Bắc, gửi báo cáo quyết toán đó cho Bộ Tài chính (ở Hà Nội).

3. Về thu ngân sách:  Để bảo đảm sự nhất trí giữa quyết toán tổng hợp của các Bộ, về số thu nộp ngân sách năm 1976 với báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước trung ương, đề nghị các Bộ, Tổng cục hướng dẫn cho tất cả các đơn vị trực thuộc tiến hành như sau:

- Từng đơn vị cơ sở lập bảng đối chiếu với Ngân hàng nhà nước nơi giao dịch  về số thu nộp của mình, đến từng tài khoản theo mục lục Ngân sách nhà nước, Bảng đối chiếu số liệu này lập theo mẫu số 2 đính kèm, phải có xác nhận của ngân hàng Nhà nước cơ sở  và gửi về Bộ chủ quản ở Hà Nội (nếu đơn vị đóng ở các địa phương từ Bình Trị Thiên trở ra) hoặc ở thành phố Hồ Chí Minh (nếu đóng ở Quảng- Đà trở vào).

- Về phía ngân hàng nhà nước cơ sở, qua đối chiếu số liệu thu nộp với các đơn vị, nếu thấy có chênh lệch so với báo cáo thu 12 tháng năm 1976, phải làm thủ tục điều chỉnh báo cáo lên cấp trên, cho đến Ngân hàng Nhà nước trung ương (ở Hà Nội hoặc ở thành phố Hồ Chí Minh) để cơ quan này thông báo cho cơ quan tài chính đồng cấp, dùng làm căn cứ điều chỉnh từ báo cáo thu 12 tháng thành quyết toán thu cả năm từng miền. Cơ quan Bộ Tài chính ở thành phố Hồ Chí Minh phải gửi bản quyết toán thu ngân sách trung ương ở miền Nam này về Hà Nội để Bộ Tài chính tổng hợp thành tổng quyết toán thu ngân sách trung ương trong cả nước.

- Cuối cùng, Bộ chủ quản tổng hợp quyết toán thu toàn ngành trong cả nước có phân tích từng loại, khoản, hạng, mục theo mục lục ngân sách Nhà nước để đối chiếu với số liệu của Bộ Tài chính ở Hà Nội.

[...]