BỘ
TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
16-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 12 năm 1973
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ KHÓA SỔ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CUỐI NĂM
TẠI CÁC CƠ QUAN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CÁC CẤP
Từ trước đến nay, hàng năm, Bộ
Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đều có thông tư hướng dẫn việc khóa sổ thu chi ngân
sách cuối năm tại các cơ quan ngân hàng Nhà nước các cấp. Rút kinh nghiệm việc
thi hành các thông tư này, trong những năm vừa qua, hai Bộ xét thấy cần thiết
phải hệ thống hóa những điểm đã quy định trong việc khóa sổ nói trên để thi
hành từ nay trở đi được thuận lợi và đi vào nề nếp.
I. Ý NGHĨA, TÁC DỤNG VÀ PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG THI HÀNH
Việc khóa sổ thu chi ngân sách
hàng năm không chỉ là một thủ tục hành chính, kế toán đơn thuần mà còn có ý
nghĩa rất lớn để thúc đẩy việc thực hiện tốt kế hoạch thu, chi ngân sách Nhà nước:
Tất cả các khoản thu thuộc ngân sách Nhà nước đều phải nộp hết, nộp đủ vào ngân
sách trước ngày khóa sổ. Tất cả những việc cần thiết phải chi tiêu thì phải bố
trí kịp thời, đảm bảo cho khoản chi được thực hiện khi hết năm, đồng thời phải
tăng cường quản lý, tăng cường kiểm tra để ngăn chặn các hiện tương chạy vốn,
chi cho hết dự toán vào dịp cuối năm.
Như vậy, tuy là ngân hàng Nhà nước
các cấp khóa sổ, nhưng tất cả các xí nghiệp, cơ quan và đơn vị tổ chức có thu,
chi vốn ngân sách Nhà nước đều phải chuẩn bị đầy đủ để kết thúc tốt và đúng hạn
một năm thực hiện ngân sách Nhà nước: Tất cả các đơn vị dự toán, các xí nghiệp
công, nông, thương nghiệp, các công, nông, lâm trường, v.v... đều phải nắm vững
các quy định trong chế độ này, chấp hành nghiêm chỉnh, khẩn trương, để mọi việc
giao dịch với Ngân hàng Nhà nước, về thu cũng như về chi ngân sách quyết toán đều
được tiến hành trước ngày, giờ khóa sổ của ngân hàng Nhà nước các cấp và đúng với
chính sách, chế độ đã quy định.
II. CÔNG VIỆC
CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC KHÓA SỔ CUỐI NĂM
A. THANH TOÁN, THU NỘP NGÂN
SÁCH:
Tất cả các ngành, các cấp các
đơn vị phải đảm bảo nghĩa vụ thu nộp cho ngân sách Nhà nước các cấp khóa sổ
thu, chi ngân sách hàng năm, các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp điều phải tích cực
chuẩn bị để thực hiện đầy đủ những yêu cầu cụ thể sau đây:
1. Tất cả các khoản thu thuộc
ngân sách Nhà nước hàng năm phải được nộp hết, nộp đủ vào ngân hàng Nhà nước,
chậm nhất là trong ngày cuối năm. Nếu nộp sau ngày đó, sẽ coi như là nộp cho ngân
sách năm sau. Vì vậy khi đánh giá kết quả thực hiện ngân sách cũng như khi xét
thành tích nộp tích lũy cho Nhà nước hàng năm, không được tính số thu nộp sau
thời gian này.
2. Ngay từ đầu quý IV và chậm nhất
là đầu tháng 12, các Bộ, các ngành phải chủ động tính toán, giao nhiệm vụ thu nộp
cụ thể cho từng xí nghiệp, từng đơn vị cấo dưới, có biện pháp theo dõi, kiểm
tra nhằm hoàn thành và hòan thành vượt mức nhiệm vụ thu nộp cho Nhà nước. Mỗi
khi giao nhiệm vụ cho các cấp dưới đóng ở các địa phương nào, cần báo cho cơ
quan tài chính và ngân hàng Nhà nước nơi đó biết để cùng phối hợp đôn đốc thực
hiện.
3. Từng đơn vị thu nộp cũng phải
tự mình tình toán mức tiền phải nộp trong năm quyết toán, chia thành từng
đợt để nộp dần ngay từ đầu tháng 12 và phải nộp xong trước ngày 31 tháng 12.
4. Tất cả các đơn vị, cơ quan,
xí nghiệp đều phải tránh không để xảy ra tình trạng: do không tính toán cụ thể
mà nộp quá mức phải nộp. Trường hợp cố tình nộp quá mức để được công nhận hoàn
thành kế hoạch; sau khi được giải quyết các quyền lợi và trích quỹ xí nghiệp,
quỹ khen thưởng, v.v... rồi lại đề nghị điều chỉnh, thì sẽ coi như vi phạm kỷ
luật hành chánh.
5. Các phòng, trạm, các ủy nhiệm
thu thuế, các cửa hàng thương nghiệp thành phố, thị xã, thị trấn, - do đặc điểm
có thu tiền thuế hoặc tiền bán hàng sau ngày, giờ khóa sổ của ngân hàng Nhà nước
nhưng thuộc vẫn thuộc ngân sách năm quyết toán, - phải bàn bạc trước với ngân
hàng Nhà nước cơ sở nơi giao dịch về thu nộp để tổ chức thu nhận những số tiền
này trong ngày hôm sau mà vẫn hạch toán vào khoản nộp của năm quyết toán.
6. Ngân hàng Nhà nước cơ sở phải
bố trí cán bộ, huy động mọi lực lượng để có thể được, chuẩn bị đầy đủ để đảm bảo
thu nhanh, thu hết, hạch toán kịp thời, không để sối thu nộp của năm quyết toán
ohảu chuyển sang năm sau. Nếu có đơn vị thu nộp số tiền mặt quá lớn, không đếm
nhận kịp thì ngân hàng Nhà nước cơ sở căn cứ và giấy nộp tiền mà ghi thu cho
năm quyết toán, còn tiền mặt thì tổ chức niêm phong, có chữ ký của hai
bên (bên nộp và bên nhận) rồi sẽ đếm tiếp trong các ngày sau. Khi tổ chức đếm
ngân hàng Nhà nuớc phải báo cho đơn vị có tiền nộp chứng kiến kết quả.
7. Đối với các khoản thu tạm,
thu chưa phân tích khoản, hạng, thu ngoài ngân sách, các cơ sở ngân hàng Nhà nước
phối hợp với các cơ quan tài chính đồng cấp và các đơn vị có thu nộp những khoản
đó để tích cực điều chỉnh vào các khoản, hạng chính thức thuộc ngân sách năm
quyết toán trước ngày khóa sổ cuối năm. Đến thời hạn khóa sổ, nếu còn sai sót lại
số tiền nào chưa điều chỉnh thì chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố thống
nhất với Ty, Sở tài chính lập chứng từ điều chỉnh vào khoản thu khác thuộc ngân
sách năm quyết toán.
B. THANH TOÁN CÁC KHOẢN CHI NGÂN
SÁCH:
Việc thanh toán chi tiêu cuối
năm phải nhằm đạt yêu cầu ngăn cấm tình trạng tranh thủ chi hết dự toán, chạy vốn
vào cuối năm, đồng thời đối với nhựng việc thực sự cần thiết phải chi tiêu thì
bố trí kịp thời, sao cho khoản chi được thực hiện và được thanh toán, quyết
toán vào ngân sách năm đó.
Để đạt được yêu cầu này, phải
chuẩn bị sớm các mặt sau đây:
1. Cơ quan tài chính định ngày
chỉ phê chuẩn hạn mức, duyệt dự toán, cơ quan ngân hàng đỉnh chỉ việc phân phối
mức chuyển kinh phí thuộc ngân sách năm quyết toán:
Thời hạn đình chỉ những việc nói
trên được ấn định căn cứ vào thời gian luân chuyển giấy tờ từ nơi phê chuẩn hạn
mức hoặc kinh phí chuyển về đến cơ sở còn có thể sử dụng được kịp thời. Do đó,
đối với những đơn vị nhận kinh phí chỉ tiêu ở cáng xa, càng lo liệu sớm để khỏi
chậm lỡ công việc. Tuyệt đối không vì đình chỉ hay phân phối hạn mức, chuyển
kinh phí mà ngăn trở các mặt hoạt động liên tục của các ngành các cấp
Đối với ngân sách trung ương, Bộ
tài chính đình chỉ không phê chuẩn hạn mức và Ngân hàng Nhà nước trung ương chỉ
việc phân phối hạn mức chuyển kinh phí nhgân sách năm quyết toán cho các đơn vị
đóng ở các tỉnh xa nhất là: Hà-tỉnh, Quảng-bình, Vĩnh-linh, Hà-giang, Sơn-la,
Lai-châu, Nghĩa-lộ từ 16 giờ ngày 16 tháng 12 hàng năm; đối với các đơn vị đóng
ở các tỉnh khác thì từ 16 giờ ngày 20 tháng 12; riêng đối với các đơn vị đóng ở
Hà-nội thì từ 16 giờ ngày 26 tháng 12 hàng năm.
Các Ty, Sở tài chính và các chi
nhánh ngân sách Nhà nước các tỉnh, thành phố quy định ngày giờ đình chỉ việc
phê chuẩn, phân phối hạn mức và chuyển kinh phí cho các đơn vị thuộc ngân sách
địa phương cho ăn khớp với các thời hạn nói trên và phù hợp với tình hình cụ thể
các cơ quan đóng trong địa phương.
Các đơn vị trực tiếp chi tiêu
không phân biệt ngân sách trung ương hay ngân sách địa phương, đều phải chi
phát hành séc báo chí vào 16 giờ ngày 24 tháng 12, để bảo đảm cho séc đã
phát hành có đủ thời gian quay trở lại Ngân hàng Nhà nước trước ngày 31 tháng
12 hàng năm. Nếu do nhu cầu thực hiện cần thiết phải phát hành sau ngày giờ đó
thì đơn vị phải thương lượng với ngân hàng Nhà nước nơi lưu ký hạn mức để đựoc
giải quyết.
2. Thanh toán các khoản cho vay,
đi vay, tạm ứng, tạm cấp:
a) Tất cả các khoản tiền ngân
sách cấp trên cho ngân sách dưới vay đểu phải thanh toán xong trước ngày 31
tháng 12 hàng năm. Nếu có khó khăn chưa thể thanh toán kịp tời hạn này, cơ quan
đi vay phải báo cáo cụ thể với cơ quan cho vay để kịp thời giải quyết trước
ngày đình chỉ việc chuyển tiền và kinh phí đã nới ở điều 1 trên đây.
b) Các cơ quan, đơn vị dự toán
đã được cơ quan tài chính tạm ứng, tạm cấp kinh phí cũng phải thanh toán xong
trước ngày 30 tháng 11. Nếu có lý do chính đáng chưa thể thanh toán ngay được
thì phải bàn bạc với cơ quan tài chính để chuyển sang năm sau tiếp tục thanh
toán; đồng thời thống nhất cách xử lý về mặt ghi chép sổ sách, đảm bảo ăn khớp
giữa kế toán đơn vị dự toán, kế toán cơ quan tài chính và kế toán quản lý quỹ
ngân sách Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước.
c) Trong nội bộ đơn vị dự toán,
phảu một mặt xét kỹ việc tạm ứng thêm trong tháng 12, một mặt tích cực thanh
toán thu hồi các khoản đã tạm ứng trước, đảm bảo cho đến ngày cuối năm không
còn số dư nợ tạm ứng nữa. Trường hợp đặc biệt, có lý do chính đáng thì được
chuyển sang năm sau bằng cách rút kinh phí năm sau – coi như khoản tạm ứng mới
thuộc niên khóa sau – và lấy đó để nộp hoàn lại tạm ứng trong năm quyết toán.
3. Thanh toán các tài khoản tiền
gửi ở Ngân hàng Nhà nước:
a) Các khoản tài khoản tiền gửi
của các đơn vị dự toán mở tại ngân hàng Nhà nước cơ sở như: tiền tạm gửi, tiền
gửi dự toán khác, tiền gửi vãng lai khác, tiền gửi chuyên dùng khác, v.v... phải
thanh toán theo kế hoạch chung như sau:
- Bản thân đơn vị phải tự kiểm
tra, soát lại nguồn gốc những số tiền gửi ở các tài khoản này: nếu có số tiền
nào đáng lẽ phải nộp ngân sách mà chưa nộp hoặc thuộc vốn ngân sách cấp phát mà
chưa chi hay đã chi rồi còn thừa, thì phải làm giấy nộp trả ngay vào ngân sách;
nếu có số kinh phí phải trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội hay số tiền thừa của khoản
trợ cấp kinh phi công đoàn thì phải thanh toán ngay với Bộ Nội vụ hay Tổng công
đoàn trước khi hết năm.
- Chậm nhất là ngày 30 tháng 12,
đơn vị lập bảng kê khai những số tiền còn dư lại trong các tài khoản kể trên,
phân tích rõ nguồn gốc, kèm theo đề đề nghị xử lý những số dư đó, đối chhiếu và
lấy chữ ký xác nhận của hàng Nhà nước nơi mở tài khoản rồi báo cáo cho cơ quan
chủ quan và cơ quan tài chính: các đơn vị dự toán trung ương đóng ở Hà Nội báo
cáo cho Bộ chủ uqnả và Bộ Tài chính (Vụ quản lý tài vụ và Vụ tổng dự toán); các
đơn vị dự toán trung ương đóng tại các địa phương khác cũng như các đơn vị dự
toán thuộc ngân sách địa phương đều phải báo các cho Sở hoặc Ty tài chính nơi
đóng cơ quan.
- Các Bộ chủ quản nhận được báo
cáo này, có trách nhiệm kiểm soát lại nếu còn sót khoản tiền nào vốn ngân sách
hoặc chiếm dụng của đơn vị thì đôn đốc nộp nốt trả ngân sách hoặc thanh toán với
cơ quan đó. Đối với những khoản tiền có lý do chính đáng được giữ lại thì
ghi ý kiến đế nghị, chuuyển cho cơ quan tài chính xét; đồng thời tổng hợp để
theo dõi tình hình gửi tiền ngoài ngân sách của các đơn vị trực thuộc và hướng
dẫn việ quản lý, đôn đốc việc thanh toán nhằm làm cho tình hình tài vụ của các
đơn vị trực thuộc được lành mạnh và ngăn ngừa việc hình thành quỹ trái phép để
chi tiêu ngoài số kinh phí đã được ngân sách cấp phát.
- Cơ quan tài chính nhận được
báo cáo này sẽ xét cụ thể từng khoản, nếu thỏa thuận thì ghi vào bảng kê của
đơn vị và chuyển cho Ngân hàng Nhà nước làm thủ tục chuyển sang năm sau cho đơn
vị tiếp tục sử dụng.
- Đến cuối ngày 31 tháng 12, nếu
đơn vị không lập bảng kê khai hoặc có kê khai nhưng không được sự thỏa thuận của
cơ quan tài chính, thì ngân hàng Nhà nước cơ sở tự động chuyển tất cả các số dư
của các tài khoản kể trên nộp vào khoản thu khác thuộc ngân sách năm quyết
toán.
b) Những trường sau đây không phải
làm các thủ tục kê khai, xét duyệt như trên mà mặc nhiên được chuyển số dư tài
khoản tiền gửi ở ngân hàng từ năm quyết toán sang năm sau:
1. Tài khoản tiền gửi vốn kin
doanh, sản xuất của các đơn vị đã hạch toán kinh tế, các đơn vị được áp dụng chế
độ cấp phát bổ trợ chênh lệch (gán thu bù chi);
2. Tài khoản tiền gửi của các cơ
quan Đảng Lao động Việt Nam các cấp (vì đây là tiền trợ cấp của Nhà
nuớc và tiền đảng phí, thuộc phạm vi quản lý của Văn phòng trung ương Đảng);
3. Số kinh phí thuộc ngân sách
năm sau đã được cấp trước trong năm quyết toán
4. Số kinh phí thuộc ngân sách
mà một số đơn vị đuợc ngân sách cấp phát để dự trữ vật tư chiến lược;
c) Đối với các đơn vị bộ đội,
Công an nhân dân vũ trang thì không phải bảng kê khai gửi cho cơ quan tài
chính, mà chỉ cần làm bản đề nghị và liên hệ với cơ quan ngân hàng Nhà nuớc nơi
giao dịch để được chuyển sang năm sau những số tiền không thuộc diện phải nộp
trả ngân sách. Nếu đơn vị đề nghị giữ lại để chuyển sang năm sau không đúng chế
độ, tức là giữ lại những số tiền đáng lẽ phải nộp thì khi kiểm tra phát hiện,
đơn vị không phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nếu đơn vị không làm bản đề nghị
chuyển sang năm sau thì ngân hàng Nhà nước cơ sở làm thủ tục chuyển vể tài khoản
của cục tài vụ Bộ Quốc phòng hoặc của Cục hậu cần Bộ tư lệnh công an nhân dân
vũ trang (số hiệu và nơi mở tài khoản này do Ngân hàng Nhà nuớc trung ương báo
cáo cho ngân hàng địa phương)
d) Riêng tài khoản gửi tiền các
Sở, Ty tài chính các địa phương thì phải phân biệt:
- Phần tiền gửi của bản thân cơ
quan giải quyết như đối với tài khoản gửi của các đơn vị dự toán khác ở địa
phương;
- Phần tiền gửi về những khoản
do các Bộ hay Tổng cục ở trung ương chính quyền cho địa phương quản lý thì phải
kê khai gửi về Bội Tài chính trước ngày 20 tháng 12 để kịp xét duyệt và hoàn lại
địa phương xử lý truớc khi ngân hàng Nhà nuớc khóa sổ cuối năm. Nếu Sở, Ty Tài
chính không làm bảng kê khai hoặc có bảng kê khai nhưng nhưng không được sự thỏa
thuận của Bộ Tài chính thì ngân hàng Nhà nước chuyển những số dư đến ngày 31
tháng 12 của các khoản tài này trả về lại ngân sách trung ương, Ngân hàng Nhà
nuớc trung ương và Bộ tài chính sẽ ghi vào khoản Tạm thu năm trước sau đó phân
tích chuyển thành thu giảm cấp phát về những khoản kinh phí đã ủy quyền cho địa
phương quản lý.
d) Tài khoản tiền gửi của các
đơn vị công trường xây dựng cơ bản gửi tại các Chi điếm ngân hàng Nhà nuớc các
huyện (nơi không ó Chi hàng hay phòng cấp phát kiến thiết cơ bản) thì đơn vị,
công trường phải kê khai số dư đến 16 giờ ngày 26 tháng 12, phân tích rõ:
- Phần của bản thân đơn vị công
trường gửi vào;
- Phần do Chi hàng kiến thiết hoặc
thành phố chuyển về, trong đó lại phân tích cụ thề số kinh phí thừa thuộc năm
quyết toán với số kinh phí được cấp trước cho năm sau. Bản kê khai này phải
chuyển về cơ quan tài chính hoặc thành phố để phối hợp với Chi hàng kiến thiết
cùng xét duyệt. Nếu có sự thỏa thuận của Ty hoặc Sở tài chính thì ngân hàng Nhà
nước mới làm thủ tục chuyển sang năm sau. Nếu không kê khai hoặc không có sự thỏa
thuận nói trên thì gến ngày khóa sổ, ngân hàng Nhà nuớc tự động chuyển số dư của
các tài khoản này về trả vào tài khoản của Chi hàng kiến thiết tỉnh hoặc thành
phố.
- Chi hàng kiến thiết tỉnh,
thành phố và ngân hàng kiến tihết trung ương phải khẩn trương thanh toán với cơ
quan tài chính những số tiền đã được tạm ứng để cấp phát cho các đơn vị, công
trường. Nếu còn thừa, phải trả lại cho ngân sách trung ương (nếu là vốn đầu tư
của ngân sách trung ương hoặc vốn kiến thiết cơ bản tập trung do Trung ương trợ
cấp cho tỉnh hoặc thành phố).
- Các Sở, Ty Tài chính phải phối
hợp với Chi hàng kiến thiết xác định số vốn kiến thiết cơ bản do trung ương trợ
cấp còn thừa lại đến ngày 31 tháng 12 và giúp đỡ Chi hàng kiến thiết làm giấy nộp
tiền trả lại ngân sách trung ương theo đúng thủ tục, mẩu mực và khoản hạng đã
quy định. Một mặt, phải phối hợp với Chi nhánh ngân hàng Nhà nuớc tỉnh, thành
phố để vừa điều chỉnh khoản thu do Trung ương trợ cấp, đảm bảo sự nhất trí giữ
2 cấp ngân sách trung ương và địa phương. Đồng thời, phải phối hợp với Ủy ban kế
hoạch tỉnh, thành phố lậ báo cá cụ thể về những công trình tuy chưa sử dụng hết
kinh phí được trợ cấp trong năm nhưng chưa hoàn thành khối lượng trong năm
nhưng chưa hoàn thành khối lượng xây dựng, còn phải tiếp tục thi công trong năm
sau. Bản báo cáo này phải gửi về Ủy ban Kế họach Nhà nuớc trung ương và Bộ Tài
chình để xét, ghi thêm vào kế hoạch xây dựng cơ bản và ngân sách năm sau, để khỏi
ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các công trình đang xây dựng dở dang.
4. Nộp kinh phí thừa và hủy bỏ hạn
mức cuối năm
Tất cả các khoản thanh toán còn
thừa cũng như số tìên mặt tồn quỹ trước khi hết năm đều phải nộp hết, trả lại
ngân sách trước ngày, giờ khóa sổ của ngân hàng Nhà nước. Sau đó, nếu đơn vị
còn thu hồi được kinh phí thừa của năm quyết toán, thì vẫn tiếp tục nộp vào
ngân hàng Nhà nuớc và cho đến nàgy 31 thánh 3 năm sau, ngân hàng Nhà nuớc cơ sở
đều hạch toán vào tài khoản Thu ngoài ngân sách trên sổ sách và báo cáo kế toán
năm sau. Sang ngày 1 tháng 4, cơ quan tài chính cùng với ngân hàng Nhà nước đồng
cấp đối chiếu số thực thu trong tài khoản này và thống nhất làm thủ tục chuyển
ghi vào thu giảm cấp phát hoặc thu hồi tạm ứng về niên khóa quyết toán. Còn những
khoản thu hồi từ 1 tháng 4 năm sau trở đi sẽ không coi là kinh phí của năm quyết
toán nữa mà phải ghi nộp và tài khoản Thu hồi khoản chi năm trước thuộc ngân
sách năm mới.
Về sối hạn mức kinh phí thuộc
ngân sách năm trước quyết toán còn lại ở ngân hàng Nhà nuớc đến ngày khóa sổ,
không một cơ quan, đơn vị nào được rút ra chi tiêu nữa và cũng không yêu cầu
đơn vị chuyển trả cho cấp trên nữa. Yêu cầu là mỗi đơn vị đều phải phải lập bảng
đối chiếu tình hình hạn mức kinh phí đã được phê chuẩn, đã phân phối, hoặc đã sử
dụng, qua đó xác định số hạn mức kinh phí còn lại để hủy bỏ trong dịp cuối năm
III. THỜI HẠN
KHÓA SỔ
1. Việc khóa sổ thu chi ngân
sách tại các Chi đếim ngân hàng Nhà nuớc cơ sở thống nhất tiến hành vào cuối giờ
làm việc ngày 31 tháng 12 hàng năm
2. Nếu ngày 31 tháng 12 hay những
ngày được ấn định là thời hạn cuối cùng để làm những công việc chuẩn bị trước
khi Ngân hàng Nhà nuớc khóa sổ cuối năm trùng vào ngày chủ nhật thì thời hạn được
quy định sớm hơn 1 ngày: vào ngày liền trước ngay ngày lễ hoặc chủ nhật đó.
IV. CÔNG VIỆC
PHẢI TIẾN HÀNH SAU KHI NGÂN HÀNG NHÀ NUỚC KHÓA SỔ
1. Sau khi khóa sổ ngày 31 tháng
12, các cấp ngân hàng Nhà nuớc phải đảm bảo thời hạn điện báo như sau:
a) Từ chi nhánh nghiệp vụ và Chi
điếm ngân hàng Nhà nuớc huyện về Chi nhánh trung tâm: nội trong buổi sáng
ngày 1 tháng 1 năm sau so với năm quyết toán;
b) Từ Chi nhánh trung tâm tỉnh,
thành phố về Ngân hàng Nhà nuớc trung ương: nội trong buổi sáng ngày 2 tháng 1
năm sau.
Nội dung điện báo bao gồm:
- Số thu, số chi ngân sách trung
ương ngày 31 tháng 12 (và cả số thu, số chi các ngà trước đó mà chưa điện); có phân
tích riêng số thi chi thuộc năm quyết toán với số thu, chi trước cho năm sau;
- Số tồn quỹ đến hết ngày
31 tháng 12 năm quyết toán của ngân sách địa phương có phân tích riêng số
thu chi thuộc năm quyết toán với số thu, chi trước chi năm sau số tồn quỹ thuộc
ngân sách năm quyết toán với số tồn quỹ thuộc ngân sách năm sau.
2. Đối với những số dư tài khoản
tền gửi của các cơ quan, đơn vị dự toán mà Ngân hàng Nhà nước cơ sở đã chuyển nộp
vào ngân sách đều phải lập bảng kê chi tiết từng số tiền của từng cơ quan, đơn
vị, để chuyển cho:
- Sở, Ty tài chính (phần chuyển
nộp vào ngân sách địa phương);
- Ngân sách Nhà nước trung ương
(phần chuyển nộp vào ngân sách trung ương)
Bảng kê chi tiết này phải đính
kèm theo báo cáo kế toán về ngày đã hạch toán số chuyển nộp đó. Ngân hàng Nhà
nước trung ương tổng hợp các bảng kê chi tiết đã nhận được theo từng tài khoản,
từng cơ quan và gửi cho Bộ Tài chính chậm nhất là ngày 31 tháng 12 năm sau.
3. Những số dư tài khoản tiền gửi
của các đơn vị, công trường xây dựng cơ bản chuyển nộp về tài khoản của
Chi hàng kiến thiết tỉnh, thành phố, cũng như những số dư tài khoản tiền gửi của
các đơn vị bộ đội, công an vũ trang chuyển nộp về tài khoản của Cục tài vụ Bộ
Quốc phòng hoặc của cục hậu cần Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang báo cáo
công có cho các chính cơ quan này để tổng hợp theo dõi và xử lý.
4. Về phía các cơ quan, đơn vị dự
toán, phải đối chiếu số liệu với ngân hàng Nhà nước cơ sở nơi đơn vị giao nhận,
cả về số thu nộp ngân sách , số hạn mức đã được cơ quan tài chính thông báo, số
hạn mức đã phân phối chi các đơn vị trực thuộc (nếu có), số kinh phí đã thực
rút, đã nộp lại để khôi phục hạn mức và số hạn mức còn lại ở Ngân hàng Nhà nước
để hủy hủy bỏ cuối năm. Những đơn vị đuợc cấp phát bằng lệnh chi tiền, những
đơn vị được quản lý theo lối gán thu, bù chi cùng phải đối chiếu về những số tiền
đã được cấp phát hoặc đã thu nộp và đã trích ra sử dụng.
Việc đối chiếu số liệu này kà một
chế độ phải được chấp hành nghiêm túc nhằm xác định những số liệu chính xác
dùng làm căn cứ kiểm tra việc chấp hành ngân sách Nhà nước từ đơn vị cơ sở đến
các cơ quan tổng hợp về ngân sách của Nhà nước. Do đó, hàng tháng, các đơn vị
đã phải đối chiếu, đến cuối năm đều phải đối chiếu lại, đảm bảo cho số liệu thu
chi ngân sách được chính xác và nhất trí một cách tuyệt đối: đảm báo khớp đúng
cả về tổng số thu hoặc chi, cả về chi tiết theo từng loại, khoản, hạng, mục của
Mục lục Ngân sách Nhà nước
Để đạt được yêu cầu đó, trước
tiên, phải đối chiếu các sổ sách, báo cáo kế toán của bản thân mỗi đơn vị, với
các đơn vị trực thuộc (nếu có) và căn cứ vào số liệu đã xác minh đó để đối chiếu
với Ngân hàng Nhà nước. Nếu còn chỗ nào chưa nhất trí, phải truy nguyên cho kỹ,
tìm ta chỗ sai sót và điều chỉnh theo đúng chế độ, đúng với thực tế, đồng thời
báo cho các cơ quan có liên quan cũng sửa lại cho thống nhất.
Khi lập báo cáo quyết toán, với
tư cách là cơ quan quản lý một cấp ngân sách, ngoài việc chủ động đôn đốc các
đơn vị ở địa phương thực hiện chế độ đối chiếu số liệu như trên còn phải trực
tiếp đối chiếu số liệu tổng hợp về ngân sách địa phương với ngan sách trung
ương nữa. Cụ thể, phải xác minh:
- Các số liệu về vay nợ và trả nợ
của ngân sách trung ương;
- Các số thu do ngân sách trung
ương trợ cấp cho địa phương bao gồm: trợ cấp kiến thiết cơ bản do trung ương
duyệt thiết kế, trợ cấp kiến thiết cơ bản tập trung do địa phương duyệt thiết kế,
trợ cấp cân đối ngân sách, trợ cấp đột xuất và trợ cấp khác (kể riêng từng khoản
cụ thể);
- Tổng số thu ngân sách địa
phương (đã trừ thu giải quyết từng loại cấp phát và có phân tích từng loại, hạng,
mục);
- Số kết dư ngân sách năm quyết
toán (tổng số);
- Phân tích: phần có tồn quỹ bảo
đảm gửi ở Ngân hàng Nhà nước, phần không có tồn quỹ bảo đảm. Lý do: đã tạm ứng
cho các cơ quan chưa thu hồi, đã tạm ứng cho Chi hàng kiến thiết chưa thanh
toán;
- Tất cả những số liệu đã đố chiếu,
phải có xác nhận của Chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành số và Sở, Ty tài
chính, phải đính kèm vào tổng quyết toán thu, chi ngân sách địa phuơng gửi về Bộ
Tài chính đúng thời hạn quy định.
V. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
Chế độ khoá sổ thu chi ngân sách
Nhà nước tại các cơ quan ngân hàng Nhà nước các cấp quy định trong thông tư này
áp dụng đối với ngân sách Nhà nước năm 1973. Trong quá trình thi hành, nếu có
điểm nào cần bổ sung hay sửa đổi, các cơ quan, các ngành, các cấp phản ánh về Bộ
Tài chính và Ngân hàng Nhà nước trung ương để xét, nghiên cứu, giải quyết tiến
tới xây dựng chế độ chính thức, Các cơ quan tài chính, ngân hàng Nhà nước trung
ương và tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm phổ biến cho tất cả các đơn vị thuộc
phạm vi đối tượng thi hành đã nói ở phần trên.
K.T.
BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Đào Thiện Thi
|
K.T.
TỔNG GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
THỨ TRƯỞNG
Lê Đức
|