Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Thông tư 12-TT/LB năm 1957 hướng dẫn Nghị định Liên bộ 111-NĐ/ LB 1955 và Nghị định 78-NĐ/LB 1957 về bồi thường tai nạn giao thông do Bộ Lao động- Bộ Nội vụ- Bộ Y tế- Bộ Tài chính ban hành

Số hiệu 12-TT/LB
Ngày ban hành 24/07/1957
Ngày có hiệu lực 08/08/1957
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lao động,Bộ Nội vụ,Bộ Tài chính,Bộ Y tế
Người ký Hoàng Tích Trí,Nguyễn Văn Tạo,Tô Quang Đẩu,Trịnh Văn Bình
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Quyền dân sự

BỘ LAO ĐỘNG - BỘ NỘI VỤ - BỘ Y TẾ- BỘ TÀI CHÍNH
*******

Số: 12-TT/LB

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

*******

Hà Nội, ngày 24 tháng 07 năm 1957

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH LIÊN BỘ SỐ 111-NĐ/ LB NGÀY 11-11-1955 VÀ NGHỊ ĐỊNH SỐ 78-NĐ/LB NGÀY 24-7-1957 VỀ BỒI THƯỜNG TAI NẠN GIAO THÔNG ( THÔNG TƯ NÀY THAY THẾ CHO PHẦN THỨ NHẤT CỦA THÔNG TƯ LIÊN BỘ 13-TT/LB NGÀY 11-11-1955 VỀ THỂ THỨC BỒI THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG).

Ngày 11-11-1955 Liên bộ Lao động- Nội vụ - Y tế và Tài chính đã ban hành Nghị định số 111-NĐ/LB ấn định thể thức bồi thường tai nạn lao động và các bệnh nghề nghiệp. Cũng ngày 11-11-1953 Liên bộ nói trên đã ra thông tư số 13-TT/LB hướng dẫn việc thi hành Nghị định số 111-NĐ/LB . Nội dung thông tư gồm 2 phần: phần nói trên về tai nạn lao động và phần dưới nói về các bệnh nghề nghiệp.

Phần về tai nạn lao động của thông tư số 13-TT/LB có mấy điểm chưa rõ ràng đầy đủ , mục định nghĩa còn thiếu sót  khiến nhiều ngành hoặc địa phương đã quan niệm không thống nhất về tai nạn lao động. Có nơi quan niệm chặt chẽ, hạn chế phạm vi được hưởng bồi thường, làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của anh chị em công nhân viên. Có nơi áp dụng việc bồi thường cho cả những trường hợp không phải là tai nạn lao động, làm thiệt hại đến công quỷ Nhà nước. Mặt khát do thông tư số 13-TT/LB chưa được đầy đủ và cụ thể, có khi đối với các tai nạn lao động tương tự, mỗi địa phương đã giải quyết một cách khác nhau, để khiến anh chị em suy bì thắc mắc.

Ngày 24-7-1957 Liên bộ ban hành Nghị định số 78-NĐ/LB sửa đổi lại điều 16 của Nghị định Liên bộ số 111-NĐ/LB ngày 11-11-1955. Để Nghị định số 111-NĐ/LB và Nghị định số 78-NĐ/LB (phần tai nạn giao thông) được thi hành đúng đắn và dễ dàng, thông tư này thay thế hẳn cho phần thứ nhất của thông tư số 13-TT/LB, giải thích rõ trường hợp nào là tai nạn lao động và hướng dẫn chi tiết việc thi hành.

I.- TRƯỜNG HỢP NÀO LÀ TAI NẠN LAO ĐỘNG

Nghị định số 111-NĐ/LB điều 1, đã quy định: “ Được kể là tai nạn lao động những tai nạn xảy ra trong khi làm việc tại các xí nghiệp ( kể cả quốc doanh), công trương, hầm mỏ, doanh điền hay tại cơ quan chính quyền, đoàn thể thuộc dự toán tỉnh và dự toán trung ương”. Như vậy, tính chất chủ yếu của tai nạn lao động là phải xảy ra trong khi làm việc tại nơi làm việc. Nói “khi làm việc” không phải chỉ bỏ hẹp vào những lúc mà người công nhân, nhân viên đang thực sự sản xuất hay làm việc mà bao gồm cả khoảng thì thời gian làm việc ở xí nghiệp, cơ quan. Ví dụ: Giờ làm việc quy định về buổi sáng bắt đầu từ 6 giờ 30 đến 11giờ. Những tai nạn xảy ra trong khoảng thời gian này tại nơi làm việc, dù vào lúc anh chị em được nghĩ giải lao hoặc vào lúc các chị cho con bú, cũng đều là tai nạn lao động. Đối với một vài công nhân viên phải đến sớm chút ít để sửa soạn máy móc hoặc ở lại chậm ít giờ để hoàn thành một công việc nào đó, thời tai nạn xảy ra cho anh chị em trong những thời gian này, ở nơi làm việc, cũng đều coi là tai nạn lao động.

Noi “ nơi làm việc” trong Nghị định cũng không nhất thiết phải là tại cơ sở sản xuất. Điều “1”, phần dưới, của Nghị định số 111-NĐ/LB đã quy định rõ ràng : “Cũng kể tai nạn lao động các tai nạn xảy ra ngoài các cơ sở sản xuất khi người công nhân viên đang tiến hành công tác do cơ quan sử dụng giao cho ( trong lúc làm việc ở nơi làm công tác hoặc trên đoạn đường cần thiết và hợp lý đi và để thực hiện công tác nói trên).

Những tai nạn xảy đến cho công nhân viên trong khi làm việc tại nơi làm việc hoặc khi thi hành nhiệm vụ ngoài cơ sở sản xuất như đã nói ở trên, bất luận do công nhân viên vô ý , do xí nghiệp thiếu phương tiện  đề phòng, do thiên tai hoặc chỉ do một sự ngẫu nhiên cũng đều là tai nạn lao động.

Sau đây là một số ví dụ về tai nạn lao động:

- Công nhân coi máy, áo vướn vào dây cua roa rồi bị nghiến nát tay.

- Cấp dưỡng bị bõng vì nồi nước sôi đổ trong khi làm việc.

- Bão lật đỗ nhà máy, làm công nhân bị thương trong khi làm việc.

- Quạt trần ở cơ quan lỏng ốc rơi trúng đầu nhân viện đang làm việc.

- Tài xế lái xe làm đổ xe, húc vào cây, vào tường làm cho người ngồi trên xe hoặc người đi đường bị thương thì cũng được coi là tai nạn lao động .

- Nhân viên mậu dịch đi áp tải một thuyền lương thực, chết vì đắm thuyền.

- Công nhân viên đựơc cử đi công tác, dọc đường bị tai nạn ôtô.

 Những tai nạn xảy đến cho công nhân viên ngoài thì giờ làm việc không coi là tai nạn lao động:

Ví dụ:

- Tai nạn xảy đến cho công nhân viên ở các làn trại của công trường hoặc tại xí nghiệp ngoài giờ sản xuất.

- Tai nạn xảy ra khi từ nhà đến xí nghiệp hoặc từ xí nghiệp để về nhà.

Ngoài ra nếu có trường hợp chưa rõ rệt là tai nạn lao động. Ban Giám đốc xí nghiệp hoặc Thủ tướng cơ quan cần thỉnh thị ngành đọc và lấy ý kiến của Bộ Lao động khi giải quyết.

II.- NHIỆM VỤ CỦA XÍ NGHIỆP VÀ CƠ QUAN SỬ DỤNG CÔNG NHÂN VIÊN KHI XẢY RA TAI NẠN LAO ĐỘNG

1) Khai trình:

Trước đây các cơ quan xí nghiệp hay công trường sử dụng công nhân viên ít khi báo cáo cho cơ quan lao động địa phương biết các tai nạn lao động xảy ra ở nơi mình phụ trách. Vì vậy, các cơ quan lao động không theo dõi được việc bồi thường cũng không biết được những nguyên nhân xảy ra tai nạn để tham gia ý kiến với  các cơ quan sử dụng trong việc bố trí phương tiện phòng ngừa.

Để chấp hành Nghị định của Thủ tướng phủ số 703-TTg và Nghị định Liên Bộ Lao động - Nội vụ - Y tế và Tài chính số 111-NĐ/LB từ nay khi có tai nạn nặng hay chết người, đơn vị để xảy ra tai nạn một mặt phải báo ngay cho cơ quan lao động địa phương biết ( hay Ủy ban hành chính những nơi không có cơ quan lao động ), mặt khác, chậm nhất là 48 giờ sau khi xảy ra tai nạn (bất luận ngày chủ nhật hay ngày lễ) phải lập biên bản và gửi tới cơ quan lao động, y tế, tòa án (Công tố viện) địa phương và  ngành đọc  biết để những nơi này kịp thời làm nhiệm vụ của mình.

Biên bản phải do Thủ tướng của đơn vị làm có đại diện công đoàn( hoặc đại diện của anh chị em công nhân viên nơi chưa có công đoàn) và cán bộ y tế đơn vị cùng ký.

Trường hợp tai nạn lao động xảy ra ở dọc đường, người bị tai nạn được đưa đến chữa tại một cơ sở y tế nào đó, thì nơi này có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan đơn vị sử dụng người bị nạn biết.

[...]