BỘ LAO ĐỘNG - BỘ
NỘI VỤ - BỘ Y TẾ- BỘ TÀI CHÍNH
*******
Số: 12-TT/LB
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà Nội, ngày 24
tháng 07 năm 1957
|
THÔNG
TƯ
HƯỚNG
DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH LIÊN BỘ SỐ 111-NĐ/ LB NGÀY 11-11-1955 VÀ NGHỊ ĐỊNH SỐ
78-NĐ/LB NGÀY 24-7-1957 VỀ BỒI THƯỜNG TAI NẠN GIAO THÔNG ( THÔNG TƯ NÀY THAY
THẾ CHO PHẦN THỨ NHẤT CỦA THÔNG TƯ LIÊN BỘ 13-TT/LB NGÀY 11-11-1955 VỀ THỂ THỨC
BỒI THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG).
Ngày 11-11-1955 Liên bộ Lao động- Nội vụ - Y
tế và Tài chính đã ban hành Nghị định số 111-NĐ/LB ấn định thể thức bồi thường
tai nạn lao động và các bệnh nghề nghiệp. Cũng ngày 11-11-1953 Liên bộ nói trên
đã ra thông tư số 13-TT/LB hướng dẫn việc thi hành Nghị định số 111-NĐ/LB . Nội
dung thông tư gồm 2 phần: phần nói trên về tai nạn lao động và phần dưới nói về
các bệnh nghề nghiệp.
Phần về tai nạn lao động của thông tư số
13-TT/LB có mấy điểm chưa rõ ràng đầy đủ , mục định nghĩa còn thiếu sót khiến
nhiều ngành hoặc địa phương đã quan niệm không thống nhất về tai nạn lao động.
Có nơi quan niệm chặt chẽ, hạn chế phạm vi được hưởng bồi thường, làm thiệt hại
đến quyền lợi chính đáng của anh chị em công nhân viên. Có nơi áp dụng việc bồi
thường cho cả những trường hợp không phải là tai nạn lao động, làm thiệt hại
đến công quỷ Nhà nước. Mặt khát do thông tư số 13-TT/LB chưa được đầy đủ và cụ
thể, có khi đối với các tai nạn lao động tương tự, mỗi địa phương đã giải quyết
một cách khác nhau, để khiến anh chị em suy bì thắc mắc.
Ngày 24-7-1957 Liên bộ ban hành Nghị định số
78-NĐ/LB sửa đổi lại điều 16 của Nghị định Liên bộ số 111-NĐ/LB ngày
11-11-1955. Để Nghị định số 111-NĐ/LB và Nghị định số 78-NĐ/LB (phần tai nạn
giao thông) được thi hành đúng đắn và dễ dàng, thông tư này thay thế hẳn cho
phần thứ nhất của thông tư số 13-TT/LB, giải thích rõ trường hợp nào là tai nạn
lao động và hướng dẫn chi tiết việc thi hành.
I.- TRƯỜNG HỢP NÀO LÀ
TAI NẠN LAO ĐỘNG
Nghị định số 111-NĐ/LB điều 1, đã quy định: “
Được kể là tai nạn lao động những tai nạn xảy ra trong khi làm việc tại các xí
nghiệp ( kể cả quốc doanh), công trương, hầm mỏ, doanh điền hay tại cơ quan
chính quyền, đoàn thể thuộc dự toán tỉnh và dự toán trung ương”. Như vậy, tính
chất chủ yếu của tai nạn lao động là phải xảy ra trong khi làm việc tại nơi
làm việc. Nói “khi làm việc” không phải chỉ bỏ hẹp vào những lúc mà người
công nhân, nhân viên đang thực sự sản xuất hay làm việc mà bao gồm cả khoảng
thì thời gian làm việc ở xí nghiệp, cơ quan. Ví dụ: Giờ làm việc quy định về
buổi sáng bắt đầu từ 6 giờ 30 đến 11giờ. Những tai nạn xảy ra trong khoảng thời
gian này tại nơi làm việc, dù vào lúc anh chị em được nghĩ giải lao hoặc vào
lúc các chị cho con bú, cũng đều là tai nạn lao động. Đối với một vài công nhân
viên phải đến sớm chút ít để sửa soạn máy móc hoặc ở lại chậm ít giờ để hoàn thành
một công việc nào đó, thời tai nạn xảy ra cho anh chị em trong những thời gian
này, ở nơi làm việc, cũng đều coi là tai nạn lao động.
Noi “ nơi làm việc” trong Nghị định cũng
không nhất thiết phải là tại cơ sở sản xuất. Điều “1”, phần dưới, của Nghị định
số 111-NĐ/LB đã quy định rõ ràng : “Cũng kể tai nạn lao động các tai nạn xảy ra
ngoài các cơ sở sản xuất khi người công nhân viên đang tiến hành công tác do cơ
quan sử dụng giao cho ( trong lúc làm việc ở nơi làm công tác hoặc trên đoạn
đường cần thiết và hợp lý đi và để thực hiện công tác nói trên).
Những tai nạn xảy đến cho công nhân viên
trong khi làm việc tại nơi làm việc hoặc khi thi hành nhiệm vụ ngoài cơ sở sản
xuất như đã nói ở trên, bất luận do công nhân viên vô ý , do xí nghiệp thiếu
phương tiện đề phòng, do thiên tai hoặc chỉ do một sự ngẫu nhiên cũng đều là
tai nạn lao động.
Sau đây là một số ví dụ về tai nạn lao động:
- Công nhân coi máy, áo vướn vào dây cua roa
rồi bị nghiến nát tay.
- Cấp dưỡng bị bõng vì nồi nước sôi đổ trong
khi làm việc.
- Bão lật đỗ nhà máy, làm công nhân bị thương
trong khi làm việc.
- Quạt trần ở cơ quan lỏng ốc rơi trúng đầu
nhân viện đang làm việc.
- Tài xế lái xe làm đổ xe, húc vào cây, vào
tường làm cho người ngồi trên xe hoặc người đi đường bị thương thì cũng được
coi là tai nạn lao động .
- Nhân viên mậu dịch đi áp tải một thuyền
lương thực, chết vì đắm thuyền.
- Công nhân viên đựơc cử đi công tác, dọc
đường bị tai nạn ôtô.
Những tai nạn xảy đến cho công nhân viên
ngoài thì giờ làm việc không coi là tai nạn lao động:
Ví dụ:
- Tai nạn xảy đến cho công nhân viên ở các
làn trại của công trường hoặc tại xí nghiệp ngoài giờ sản xuất.
- Tai nạn xảy ra khi từ nhà đến xí nghiệp
hoặc từ xí nghiệp để về nhà.
Ngoài ra nếu có trường hợp chưa rõ rệt là tai
nạn lao động. Ban Giám đốc xí nghiệp hoặc Thủ tướng cơ quan cần thỉnh thị ngành
đọc và lấy ý kiến của Bộ Lao động khi giải quyết.
II.- NHIỆM VỤ CỦA XÍ
NGHIỆP VÀ CƠ QUAN SỬ DỤNG CÔNG NHÂN VIÊN KHI XẢY RA TAI NẠN LAO ĐỘNG
1) Khai trình:
Trước đây các cơ quan xí nghiệp hay công
trường sử dụng công nhân viên ít khi báo cáo cho cơ quan lao động địa phương
biết các tai nạn lao động xảy ra ở nơi mình phụ trách. Vì vậy, các cơ quan lao
động không theo dõi được việc bồi thường cũng không biết được những nguyên nhân
xảy ra tai nạn để tham gia ý kiến với các cơ quan sử dụng trong việc bố trí
phương tiện phòng ngừa.
Để chấp hành Nghị định của Thủ tướng phủ số
703-TTg và Nghị định Liên Bộ Lao động - Nội vụ - Y tế và Tài chính số 111-NĐ/LB
từ nay khi có tai nạn nặng hay chết người, đơn vị để xảy ra tai nạn một
mặt phải báo ngay cho cơ quan lao động địa phương biết ( hay Ủy ban hành chính
những nơi không có cơ quan lao động ), mặt khác, chậm nhất là 48 giờ sau khi
xảy ra tai nạn (bất luận ngày chủ nhật hay ngày lễ) phải lập biên bản và gửi
tới cơ quan lao động, y tế, tòa án (Công tố viện) địa phương và ngành
đọc biết để những nơi này kịp thời làm nhiệm vụ của mình.
Biên bản phải do Thủ tướng của đơn vị làm có
đại diện công đoàn( hoặc đại diện của anh chị em công nhân viên nơi chưa có
công đoàn) và cán bộ y tế đơn vị cùng ký.
Trường hợp tai nạn lao động xảy ra ở dọc
đường, người bị tai nạn được đưa đến chữa tại một cơ sở y tế nào đó, thì nơi
này có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan đơn vị sử dụng người bị nạn biết.
Đối với những tai nạn, trước đây cho là nhẹ
không lập biên bản, nhưng sau vì thương tích biến chứng phải điều trị trên 20
ngày mới khỏi thì trường hợp này cũng được coi là tai nạn nặng và đơn vị phải
lập biên bản gữi đến cơ quan kể trên biết. Ngoài ra, hàng tháng, các đơn vị
phải báo cáo tình hình tai nạn lao động đã xảy ra trong đơn vị mình cho cơ quan
lao động, y tế và ngành dọc biết. Báo cáo phải nêu tổng số tai nạn xảy ra và
chia loại: bao nhiêu tai nạn nhẹ, nặng và chết. Tai nạn phải nghỉ việc để điều
trị từ một ngày đến 20 ngày gọi là tai nạn nhẹ và phải điều trị trên 20 ngày
là tai nạn nặng. Những tai nạn không phải nghĩ việc, không báo cáo.
2) Săn sóc và đãi ngộ công nhân viên bị tai
nạn lao động:
Khi xảy ra tai nạn, cơ quan sử dụng phải tổ
chức ngay việc cấp cứu đầu tiên cho người bị tai nạn. Vì vậy, tại các nơi làm
việc : xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường phải có hộp thuốc cấp
cứu, có đủ thuốc men thông thường và vật dụng cần thiết để băng bó.
Đối với những tai nạn mà y sĩ hay y tá xét
cần phải đưa đi điều trị tại bệnh viện, thì suốt trong thời gian điều trị người
bị nạn chỉ phải trả khoản tiền ăn theo tiêu chuẩn đã quy định, còn những khỏan
phí tổn sau đây, đơn vị sử dụng phải thanh toán:
- Tiền phí tổn chở người bị nạn đến bệnh viện
và tiền tâu, xe lúc ra về.
- Tiền nằm bệnh viện, tiền thuốc men, bồi
dưỡng. Trường hợp đặt biệt được bác sĩ hay y sĩ phụ trách bệnh viện chứng nhận
được nằm ở nhà riệng để điều trị thì cũng được hưởng tiền thuốc men và tiền bồi
dưỡng them nếu có.
3) Trả lương và phụ cấp cho công nhan viên
trong thời kỳ nằm điều trị:
a) Bình phục hẳn không cần thương tật: trả
lương, phụ cấp bản thân và phụ cấp gia đình ( nếu có) trong suốt thời kỳ điều
trị cho đến khi trở lại làm việc.
b) Thành thương tật:
Thành thương tật, bất luận được xếp vào hạng
nào nhưng nếu công nhân viên thôi làm việc hẳn, thôi lương, phụ cấp bản thân và
phụ cấp gia đình (nếu có)phải trả cho đến ngày có quyết định của Hội đồng xếp
thương tật.
Nếu thành thương tật thuộc các hạng 2,3,4và 5
mà còn đi làm được, cơ quan phải bố trí cho công việc nhẹ thích hợp, lương phải
trả theo công việc mới kể từ ngày chính thức nhận việc mới. Trước ngày đó lương
vẫn trả như cũ.
c) Chết: Lương, phụ cấp bản thân và
phụ cấp gia đình (nếu có) sẽ thanh toán như sau:
Chết vào 15 ngày đầu tháng, trả nửa tháng;
chết vào 15 ngày cuối tháng, trả cả tháng. Nếu chết vào 15 ngày đầu tháng nhưng
lương đã trả cả tháng rồi thì cũng phải truy hoàn.
III.- CÁC HẠNG THƯƠNG
TẬT
Nghị định Liên bộ số 111-NĐ/LB, điều 5, đã
chia thương tật ra làm 6 hạng để định mức bồi thường. Tiêu chuẩn của mỗi hạng
ghi trong Nghị định chỉ có tính chất điển hình. Để việc phân hạng những thương
tật phức tạp khỏi bị khó khăn trở ngại, phần dưới đây quy định chi tiết và cụ
thể tiêu chuẩn của mỗi hạng.
a) Hạng đặc biệt:
Những người bị một trong những trường hợp
dưới đây, đã mất hết khả năng làm việc và cần phải có người chăm sóc, thì xếp
vào hạng đặc biệt.
1) Bị mất 3 chân tay trở lên hay bị thương 3
chân tay trở lên mà các chân tay đó đều mất hết tác dụng.
2) Bị tê liệt 3 chân tay trở lên.
3) Có 2 chân hoặc 2 tay bị tê liệt giây thần
kinh xương sống bị thương.
4) Mất hết 2 tay hoặc 2 chân mà không thể làm
được chân tay giả.
5) Vì bị thương mà loạn óc điên dại.
6)Có 1 vết thương trong hạng 1 và một vết
thương trong hạng 2.
b) Hạng 1:
Những người bị một trong những trường hợp
dưới đây, đã mất hết khả năng làm việc nhưng không cần thiết có người chăm sóc
thì xếp vào thương tật hạng 1.
1) Hai chân hoặc 2 tay bị cụt một phần hoặc
vì bị thương mà mất hết tác dụng.
2) Mù cả 2 mắt.
3) Giây thần kinh óc hay óc bị thương sinh
ngớ ngẩn không làm được việc gì.
4) Bị thương vào mồm khi nhai và không nói
được.
5) Có 2 vết thương trong hạng 2 hoặc 2 vết
thương mà một vết trong hạng 2 và một vết trong hạng 3.
6) Các bộ phận nội tạng quan trọng hay các bộ
phận khác bị thương tương đương với những điểm trên.
c) Hạng 2:
Những nạn nhânh bị một trong những trường hợp
dưới đây được xếp vào hạng 2.
1) Mất một chân hoặc một tayhoặc vì bị thương
mà mất hết tác dụng.
2)Bị thương từ 2 chân tay trở lên, có bộ phận
cứng thẳng nhưng còn có thể miễn cưỡng làm việc được.
3) Cụt mất 10 ngón tay.
4) Vừa câm vừa điếc cả 2 tai.
5) Hai mắt vì bị thương hoặc bị hỏng nên chảy
máu hay có màng, sức nhìn rất kém, chỉ trông thấy trong khoảng 1 thước, và
không thể chữa được.
6) Bị thương vào mồm không nhai được
7) Các bộ phận nội tạng quan trong hay các bộ
phận khác bị thương tương đương với những điểm trên.
8) Vết thương vào sọ não hoặc chấn động thần
kinh gây nên những cơn động kinh ( epilepsie).
9) Vết thương có dây thần kinh gây bị bỏng
rát (causalgie).
10) Bộ máy sinh dục bị thương, mất hết khả
năng sinh dục.
11) Có từ 2 vết thương trở lên ở hạng 3.
d) Hạng 3:
Những tai nạn bị một trong những trường hợp
dưới đây được xếp vào thương tật hạng 3:
1) 1) Mất một chân hoặc một tay.
2)Vết thương gãy xương làm cứng một chân hoặc
hay một tay hoặc khớp xương cử động rất khó khăn.
3) Mất cả 2 ngón tay cái hay chỉ mất một ngón
tay cái và các ngón khác từ 3 ngón trở lên.
4) Mất hết 10 ngón chân hay một phần bàn
chân.
5) Hòan toàn không nói được.
6) Mồm bị thương rụng gần hết răng không thể
lắp được răng giả, nhai khó khăn.
7) Một mắt mù hoặc một mắt mở hoặc cả 2 mắt
cùng bị mở khó chữa khỏi hay lâu mới khỏi được.
8) Điếc cả 2 tai.
9) Đầu hoặc ngay thắt lưng bị thương khiến
cho cử động khó khăn hoặc khó khỏi
10) Các bộ phận nội tạng quan trọng hoặc các
bộ phận khác bị thương tương đươngvới các điểm trên.
11) Có từ hai vết thương trở lên ở hạng 1.
e) Hạng 4:
Những tai nạn bị một trong những trường hợp
dưới đây được xếp vào thương tật hạng 4:
1) Mù một mắt.
2)Mất mũi:
3) Mất một ngón tay trái hoặc cụt đốt thứ
nhất đồng thời cụt một ngón tay chỗ ở bàn tay kia hay 2 ngón tay khác ở bàn tay
kia.
4) Mất 5 ngón chân trở lên hay bàn chân cứng
đờ không cử động được.
5) Gân cốt bị thương, cử động không thuận tiện.
6) Những thương tích khác tương đương với các
khoản trên.
7) Có từ 2 vết thương trở lên ở hạng 5.
f) Hạng 5:
Những tai nạn bị một trong những trường hợp
dưới đây được xếp vào thương tật hạng 5:
1) Nói năng không rõ.
2) Tai bị nghễnh ngãng, nghe không rõ, khó
khăn.
3) Một ngón tay cái bị cụt đốt thứ nhất, hay
mất một ngón tay trỏ, hay mất 2 ngón tay khác.
4)Mất từ 2 ngón chân trở lên.
5) Những thương tích khác tương đương với các
khỏan trên.
6) Có nhiều vết thương nhẹ mà gom lại có thể
ảnh hưởng đến sức làm việc bằng, hay hơn một trong những vết thương nói trên.
Để định hạng thương tật. Hội đồng xét thương
tật sẽ dựa vào các hạng đã nói trên đồng thời còn cần phải cân nhắc ảnh hưởng
của mỗi thương tật đối với nghề nghiệp của mỗi ngườibị nạn. Cũng một thương tật
làm tàn phế một bộ phận giống nhau nhưng khả năng ảnh hưởng đến khả năng lao
động , ở người công nhân ở mỗi nghề có thể khác nhau. Hội đồng sắp xếp, nếu
thấy cần, có thể tùy trường hợp, căn cứ vào ảnh hưởng của thương tật đối với
nghề nghiệp của người bị nạn mà xếp cao lên một hạng ( chỉ có thể xếp hạng liền
hay trên là cùng). Thí dụ: Một công nhân lái xe bị tai nạn lao động làm cụt
một bàn chân. Thương tật thuộc hạng 3, nhưng đối với nghề lái xe hơi bàn chân
có tác dụng nhiều hơn đối với các nghề nghiệp khác như dệt vải, in v,v... Vì
vậy có thể xếp thương tật cụt bàn chân của công nhân lái xe hơi vào hạng 2.
IV.- MỨC BỒI THƯƠNG
Tùy theo hạng thương tật, công nhân viên bị
tai nạn lao động được bồi thường như sau.
Tai nạn chết người:
15 tháng lương kể cả phụ cấp bản thân và phụ
cấp gia đình ( nếu có). Ngoài ra cơ quan sử dụng phải trả tiền chôn cất gồm
những khoản tiền để mua áo quan, 6 thước vải, tiền thuê xe, và thuê người làm
việc chôn cất. ( Tiền chôn cất của anh em miền Nam sẽ theo chế độ riêng đã
được quy định trong thông tư của Bộ Nội vụ số 34-PQC ngày 6-11-1956).
Nghị định Liên bộ số 111-NĐ/LB, điều 7, trước
đã ấn định số tìên bồi thường cho công nhân viên bị chết bị tai nạn lao động
bằng 12 tháng lương kể cả phụ cấp bãn thân và gia đình. Ngày 29-2-1956, Thủ
tướng phủ ban hành nghị định số 703-TTg ấn định mức trợ cấp cho những tai nạn
lao động làm chết người bằng 15 tháng lương kể cả phụ cấp bản thân và gia đình.
Như vậy điều 7 của Nghị định Liên bộ số 111-NĐ/LB đã được sửa lại bằng Nghị định
số 703-TTg nói trên của Thủ tướng phủ.
Khoản trợ cấp sẽ giao cho người thừa kế của
người bị tai nạn lao động. Được coi là thừa kế, theo thứ tự ưu tiên như sau: vợ
( hay chồng), con (hay con nuôi), cha mẹ( hay cha mẹ nuôi) . Trường hợp không
có vợ (hoặc chồng), con, cha , mẹ thì người thân thích gần nhất đã chịu sự cấp
dưỡng của người chết hay đã cấp dưỡng cho người chết lúc sinh thời có quyền
được lãnh khoản bồi thường. Ví dụ: Ông nội người chết đã chịu sự cấp dưỡng của
người cháu bị tai nạn lao động.
Tai nạn lao động.
Hạng đặc biệt: 12 tháng lương kể
cả phụ cấp bản thân và gia đình
hạng 1: 11 tháng “ “
hạng 2: 9 tháng “ “
hạng 3: 7tháng “ “
hạng 4: 5 tháng “ “
hạng 5: 3tháng “ “
Những thương tật nhẹ không đủ để sắp xếp vào
hạng 5 không có bồi thường. Trên thực tế anh chị em ở trường hợp này, sau khi
được điều trị lành mạnh, trở về làm việc như cũ, sức làm việc không bị giảm sút
bao nhiêu.
Người công nhân viên bị thương tật được xếp
vào hạng “đặc biệt” và “1”, có gia đình hoặc thân thích đủ khả năng giúp đỡ sẽ
lĩnh khoản bồi thường như đã nói ở trên. Người nào không có gia đình hoặc không
nương tựa được vào thân thích sẽ đựoc Chính phủ quy định việc nuôi dưỡng( một
thông tư Liên bộ Lao động - Cứu tế Xã hội – Tài chính sẽ quy định thể thức và
chi tiết sau).
Đối với người bị thương tật xếp từ hạng 2 trở
xuống, xí nghiệp hay cơ quan phải bố trí công việc thích hợp với khả năng còn
lại hoặc tìm việc thích hợp cho anh chị em ở một xí nghiệp hay cơ quan khác
trong ngành. Nếu anh chị em về nông thôn thì cơ quan sử dụng và Công đoàn cơ
quan có trách nhiệm giới thiệu với Uỷ ban hành chính và nội bộ địa phương để
tuỳ theo phương tiện của từng miền mà tích cực chăm sóc giúp đỡ anh chị em về
vật chất cũng như tinh thần. Nếu anh chị em cần chân giả, tay giả, cơ quan sử
dụng phải sắm các thứ ấy cho anh chị em.
Công nhân viên bị thương tật từ hạng 2 trở
xuống mà còn đi làm được và được cơ quan bố trí công việc mới thì ngoài số
lương bản thân trả theo khả năng hiện tại của mình , vẫn tiếp tục hưởng phụ cấp
gia đình. Vì vậy khoản bồi thường thương tật của những anh chị em này chỉ tính
bằng 9, 7,5 hoặc 3 tháng lương kể cả phụ cấp bản thân chứ không kể phụ cấp gia
đình.
V.- LƯƠNG CĂN BẢN
DÙNG ĐỂ TÍNH CÁC KHOẢN TRỢ CẤP.
Tiền lương để tính trả cho công nhân viên lĩnh
lương tháng trong thời kỳ điều trị cũng như để tính tiền bồi thường là lương
tháng cuối cùng của công nhân viên trước khi xảy ra tai nạn.
Nếu là công nhân viên hưởng lương ngày thì sẽ
căn cứ vào số lương ngày cuối cùng trước khi bị nạn mà tính ra lương 1 tháng
(25 ngày).
Nếu là công nhân viên hưởng lương khoản mà đã
được sắp xếp cấp bậc thì sẽ căn cứ vào số lương của bậc cấp để tính ra lương
tháng.
Nếu là công nhân viên làm khoản không sắp xếp
cấp bậc thì sẽ căn cứ vào cấp bậc trong thu nhập trung bình hằng tháng. Trường
hợp chưa được ba tháng thì căn cứ vào thời gian đã làm việc để tính số thu nhập
trung bình hằng ngày rồi nhân lên 25 để thấy thu nhập trung bình hằng tháng.
Nếu số thu nhập trung bình hằng tháng dưới mức lương tối thiểu, số tiền bồi thường
sẽ tính theo mức lương tối thiểu.
Ví dụ:
1.- Trường hợp đã làm khoản được trên 3
tháng:
Anh A bắt đầu làm việc ngày 3-4-1956 và chết
tháng ngày 10-9-1956 , số thu nhập trung bình hằng tháng của anh sẽ là:
1/3 số thu nhập từ 11-6-1956 đến 10-9-1956.
Nếu từ 11-6-1956 đến 10-7-1956 anh thu nhập
được :80.000đ
Nếu từ 11-7-1956 đến 10-8-1956 anh thu nhập
được :70.000đ
Nếu từ 11-8-1956 đến 10-9-1956 anh thu nhập
được :60.000đ
Số thu nhập trung bình hằng tháng của anh sẽ
là :
đ
2.- Trường hợp làm khoán chưa được 3 tháng:
Anh B bắt đầu làm việc ngày 5-9-1956 và chết
tháng ngày 12-10-1956. Thời gian làm việc từ ngày 5-9-1956 đến 12-10-1956 sẽ là
;
Tháng 9: từ ngày 5-9-1956 đến 30-9-1956 = 26
ngày.
Tháng 10: từ 1-10-1956 đến 12-10-1956 = 12
ngày
Tổng
38 ngày
Số thu nhập trung bình hằng tháng của anh sẽ
là:
1/38 số thu nhập từ ngày 5-9-1956 đến
12-10-1956.
Nếu từ ngày 5-9-1956 đến 12-10-1956 (không kể
thực sự anh đã làm việc trong bao nhiêu ngày) anh thu nhập đựơc 76.000đ
Số thu nhập trung bình hằng ngày của anh sẽ
là:
Số thu nhập trung
bình hằng tháng của anh sẽ là:
2.000 x 25 ngày = 50.000đ
Nếu mức thu nhập hàng tháng dưới mức tối
thiểu, số tiền bồi thường sẽ tính theo mức lương tối thiểu.
Nếu là thợ học nghề hưởng lương mức tối thiểu
thì tiền bồi thường sẽ tính theo mức lương tối thiểu.
Công nhân viên kháng chiến bị tai nạn lao
động trước ngày 1-7-1955, thì số lượng căn bản để tính khoản bồi thường sẽ dựa
vào hai trường hợp:
a)Người bị tai nạn lao động lúc đó chưa hưởng
lương cân gạo mà chỉ lĩnh một số tiền, nay quy định thống nhất là ( 400 xã hội
chủ nghĩa 35 cân = 14.000 một tháng.
b)Người bị tai nạn lao động lúc đó đã hưỡng
lương theo cân gạo, thì đều tính theo giá 400 đ một cân gạo bằng cách lấy tổng
số cân gạo được lĩnh trong tháng nhân với 400đ.
Ngoài ra, nếu nạn nhân có gia đình thì bị
thương tháng nào phụ cấp gia đình tính theo tháng đó với tiêu chuẩn như sau:
a) Từ 31-5-1952 trở về dưới ( thêm phụ cấp vợ
11 cân, mỗi con 5 cân 1/2 tháng.
b) Từ 1-6-1952 trở về sau mỗi tháng phụ cấp
mỗi con 12 cân hay hơn nếu có.
(Từ tháng 10 năm 1954 từ phụ cấp con ở Hà Nội
là 18 cân. Riêng với cán bộ miền Nam từ ngày tạp kết ra Bắc thì phụ cấp là 20
cân nếu ở địa phương và 30 cân nếu ở Hà Nội.
- Trường hợp hai vợ chồng cùng làm việc và
điều có tiêu chuẩn phụ cấp con cả, mà một trong hai người bị tai nạn được bồi
thường có cả phụ cấp gia đình thì người bị nạn chỉ được hưởng tiêu chuẩn phụ
cấp con của một người được hưởng . Ví dụ: 2 vợ chồng làm việc phụ cấp được 20
cân một cháu, nếu một trong hai người bị tai nạn nghỉ việc thì khoản phụ cấp đó
chỉ tính 12 cân chứ không tính 20 cân.
VI.- TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG TAI NẠN LAO ĐỘNG
Theo Nghị định Liên bộ số 111- NĐ/LB, điều 3
đến điều 9, cơ quan, xí nghiệp, hay công, nông, lâm trường sử dụng công nhân
viên có trách nhiệm bồi thường tất cả những tai nạn lao động đã xảy đến cho
công nhân viên của mình. Nếu tai nạn xảy ra do lỗi của một người thứ 3 . Ví dụ
: Ôtô tư nhân hay xí nghiệp khác đã gây ra tai nạn)thời cơ quan sử dụng người
công nhân viên đó vẫn có trách nhiệm săn soc và thanh toán mọi quyền lợi theo
như tinh thần của Nghị định nói trên cho người bị tai nạn, đồng thời đệ đơn tại
toà án xin truy tố người gây ra tai nạn và đòi bồi thường . Nếu toà án quyết
định người gây ra tai nạn bồi thường, cơ quan sử dụng được nhận một phần tiền
ngang với số tiền mà mình đã phải trả trước cho người bị tai nạn lao động ,
phần còn lại thuộc sở hữu của người bị tai nạn lao động , hoặc của người thừa
kế.
Nếu công nhân viên bị tai nạn lao động thuộc
một đơn vị đã giải tán, thì ngành nào quản trị đơn vị này chịu trách nhiệm bồi
thường.
VII.- PHẠM VI THI
HÀNH VÀ HIỆU LỰC CỦA NGHỊ ĐỊNH 111-NĐ/LB
Nghị định số 111- NĐ/LB áp dụng cho tất cả
các loại công nhân viên phục vụ tại các xí nghiệp( kể cả quốc doanh) công,
nông, lâm trường, hầm mỏ, cơ quan chính quyền và đoàn thể thuộc dự toán tỉnh
hoặc dự toán trung ương, bất luận là lãnh lương tháng , lương khoán hay lương
ngày và cũng không phân biệt quốc tịch hoặc cũ hay mới.
Nghị định nói trên có hiệu lực kể từ ngày ban
hành(11-11-1955). Để đặc biết chíêu cố đến công nhân viên kháng chiến, trong
điều 16 của Nghị định nói trên có quy định: những anh chị em bị tai nạn lao
động trong khoảng thời gian từ 2-9-1945 ( ngày tuyên bố độc lập) cho đến ngày
11-11-1955( ngày ban hành Nghị định 111-NĐ/LB), nếu chưa được bồi thường cũng
được xét và bồi thường theo những điều khoản trong Nghị định 111-NĐ/LB
Sau khi đã để một thời gian trên 20 tháng để
thanh toán những trường hợp đặc biệt nói trên , ngày 24-7-1957 Liên bộ Lao
động- Nội vụ - Y tế- Tài chính đã ban hành Nghị định số 78- NĐ/LB sửa đổi điều
16 của Nghị định 111- NĐ/LB và ấn định ngày 30-10-1957 là thời hạn cuối cùng
để xét duyệt những trường hợp đặc biệt đó. Kể từ ngày 1-11-1957, chỉ xét và
bồi thường theo những điều khoản của Nghị định 111- NĐ/LB những tai nạn lao
động xảy ra từ ngày ban hành nghị định đó (11-11-1955) . Để cơ quan có trách
nhiệm có thể xét , trước thời hạn ấn định, những trường hợp đặc biệt có thể còn
sót lại. Liên bộ đề nghị các Uỷ ban hành chính và cơ quan lao động các khu,
thành phố và tỉnh sẽ phổ biến rộng rãi Nghị định số 78- NĐ/LB và ngày 24-7-1957
để công nhân viên ở các cơ quan, đoàn thể, xí nghịêp, công, nông, lâm trường
được biết.
Công nhân viên bị tai nạn lao động trong thời
gian từ ngày 2-9-1945 đến11-11-1955 nếu đã lĩnh bồi thường rồi thì đối chiếu
với tiêu chuẩn hiện tại dù hơn hay thiệt, cũng không đặt thành vấn đề truy hoàn
hay truy lĩnh.
Những tai nạn chiến tranh do dịch gây ra
trong thời kỳ kháng chiến ( từ 19-12-1946 đến 20-7-1954) không thuộc phạm vi
thi hành của Nghị định Liên bộ số 111- NĐ/LB .
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO
ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ
NỘI VỤ.
THỨ TRƯỞNG
Tô Quang Dầu
|
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
B.S. Hoàng Tích Trí
|
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ
TÀI CHÍNH.
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bình
|