BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-LĐ-TT
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 01 năm 1956
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CÁC CHẾ ĐỘ LƯƠNG CHO CÔNG NHÂN VÀ NHÂN
VIÊN CÁC XÍ NGHIỆP CHÍNH PHỦ, DOANH NGHIỆP QUỐC GIA VÀ CÔNG TRƯỜNG
Kính
gửi:
Đồng kính gửi:
|
- Các ông Chủ tịch UBHC Liên
khu Việt bắc, 3, 4, Khu tự trị Thái mèo, Hà Nội, Hải Phòng, Hồng Quảng, Tả,
ngạn, khu vực Vĩnh Linh
- Các ông Giám đốc Lao động các Liên khu Việt Bắc, 3, 4, Tả ngạn, Hà Nội, Hải
Phòng và Hồng Quảng
- Các vị Bộ Trưởng các Bộ
|
Nghị định số 650-TTg ngày
30-12-1955 của Thủ tướng Chính phủ ban hành các chế độ lương cho công nhân,
nhân viên kỹ thuật và công chức;
Bộ ra Thông tư này nhằm mục đích
giải thích, hướng dẫn thi hành Nghị định nói trên được kịp thời và kết
quả.
I - MỤC ĐÍCH Ý
NGHĨA VIỆC BAN HÀNH CÁC CHẾ ĐỘ LƯƠNG.
Nhiệm vụ trọng yếu trong giai đoạn
hòa bình, đấu tranh chính trị hiện nay là khôi phục kinh tế và phát triển văn
hóa để nâng dần mức sống của nhân dân, củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam.
Công nhân, lao động chân tay và
trí óc phải ra sức làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy.
Muốn được như vậy, mỗi người
công nhân lao động phải cố gắng nâng cao hiệu suất lao động, giữ đúng kỷ luật
lao động, thi đua phát triển sản xuất và đề cao cảnh giác bảo vệ sản xuất.
Trong mấy năm kháng chiến, công
nhân, lao động cũng như quân đội và các tầng lớp nhân dân khác đã vì lòng thiết
tha yêu nước quyết tâm chịu đựng gian khổ, phục vụ tiền tuyến để cho kháng chiến
được thắng lợi. Nay lại phải ra sức phục hồi kinh tế thì cũng cần bồi dưỡng một
phần sức lao động bị sút kém ấy. Như vậy mỗi người sẽ thêm phấn khởi tích cực
thi đua sản xuất thi hành tiết kiệm phát triển nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế quốc dân càng phát triển
thì sẽ tạo thêm điều kiện để cải thiện sinh hoạt vật chất và văn hóa cho nhân dân.
Mặt khác để sử dụng đúng tài
năng của mỗi người, khuyến khích học tập, rèn luyện để tiến bộ về chuyên môn và
kỹ thuật và phát huy tinh thần lao động sáng tạo. Chính phủ ban hành các thang
lương và những tiêu chuẩn nghề nghiệp để sắp xếp cho đúng mực.
Nói tóm lại, việc sắp xếp và trả
lương theo thang bậc mới sẽ có tác dụng bồi dưỡng một phần sinh hoạt cho công
nhân, cán bộ và công chức, đồng thời khuyến khích đẩy mạnh sản xuất và công
tác.
Căn cứ kết quả việc sắp xếp lần
này, sẽ nghiên cứu một chế độ hợp lý hơn, hoàn toàn dựa trên sản xuất và có tác
dụng đẩy mạnh sản xuất .
II. – NỘI
DUNG VÀ NGUYÊN TẮC THI HÀNH CHẾ ĐỘ LƯƠNG CÔNG NHÂN, NHÂN VIÊN.
A – PHÂN LOẠI
TRỌNG YẾU CÁC NGHÀNH SẢN XUẤT :
1 - Nghị định số 650-TTg của Thủ
tướng Chính phủ đã chia các ngành sản xuất làm 5 loại. Mỗi loại có những mức
lương khởi điểm và mức lương tối đa riêng.
- Việc phân loại này nhằm chiếu
cố những công nhân và nhân viên làm ở các ngành sản xuất trọng yếu mà quy
mô sản xuất to lớn hơn, tính chất nghề nghiệp khó nhọc hơn và trình
độ kỹ thuật tương đối cao hơn những công nhân, nhân viên làm ở các xí nghiệp
khác.
Việc phân loại này căn cứ:
a) Theo phương châm phục hồi
kinh tế hiện nay mà ấn định thứ tự trọng yếu của các ngành.
b) Theo trình độ tổ chức, trình
độ kỹ thuật, tính chất và quy mô sản xuất của các xí nghiệp (cơ khí, bán cơ
khí, tiểu công nghệ,vv…)
Phân hạng xí nghiệp :
2. – Trong mỗi loại tùy theo
tính chất và quy mô sản xuất của các xí nghiệp mà từng Bộ, từng ngành sẽ chia
ra làm 2, 3 hoặc 4 hạng xí nghiệp .
Thí dụ: Trong loại 1(mỏ) có thể
chia làm 3 hạng xí nghiệp khác nhau. Mỏ than Hồng Gai xếp vào hạng 1 của loại
1, mỏ Phôt phát Khu 4 xếp vào hạng 2 của loại 1.
Mỗi Bộ, mỗi ngành sau khi đã
chia các hạng xí nghiệp trong mỗi loại sẽ đưa sang Bộ Lao động duyệt trước khi
thi hành.
Ngành sản xuất nào chưa có tên
trong bảng phân loại thì Bộ Lao động sẽ cùng Bộ Sở quan nghiên cứu xếp loại.
3. – Nguyên tắc chiếu cố ngành:
Về mức lương chỉ chiếu cố những công nhân và nhân viên chủ yếu là những
người phục vụ trực tiếp công việc sản xuất. Thí dụ trong ngành mỏ thì chiếu cố
những công nhân làm những công việc trực tiếp về sản xuất than, công nhân tiện,
đúc, điện (nếu trong mỏ có nhà máy), vv...Còn nhân viên thì Quản đốc, Đốc công,
cán bộ kế hoạch, v.v....
Những công nhân và nhân viên
không chủ yếu làm việc ở ngành này hay ngành khác nếu xếp vào một bậc như nhau
thì hưởng lương nhua. Thí dụ: quét dọn, gác xưởng, cấp dưỡng, văn thư, v.v....
Mỗi Bộ, mỗi ngành sẽ căn cứ vào
tính chất và đặc điểm sản xuất của các xí nghiệp, cùng với Bộ Lao động quy định
những công nhân và nhân viên nào thuộc loại chủ yếu.
B. – THANG
LƯƠNG:
Nghị định số 650-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ban hành thang lương chính:
1. – Thang lương 8 bậc cho công
nhân các xí nghiệp.
2. – Thang lương 17 bậc cho cán
bộ dân cư và nhân viên hành chính ở cơ quan.
3. – Thang lương 11 bậc cho cán
bộ và nhân viên kỹ thuật.
4. – Thang lương 6 bậc cho lao động
thường ở các xí nghiệp.
1. – Thang lương 8 bậc của công nhân:
Trước đây đã bắt đầu sắp xếp
công nhân vùng kháng chiến vào thang lương 8 bậc. Từ ngày hòa bình lập lại, những
xí nghiệp tiếp quản đã được chỉnh đốn, một số xí nghiệp khác được khôi phục.
Nay đến lúc cần xếp tất cả công nhân thuộc các xí nghiệp cũ, xí nghiệp tiếp quản
và xí nghiệp mới phục hồi để thống nhất các tiêu chuẩn sử dụng và đãi ngộ theo
nghề nghiệp. Việc thống nhất này làm được vì xét về nghề nghiệp thì chưa có nghề
nào mới, xét về trình độ kỹ thuật, không có sự chênh lệch quá đáng.
Chính phủ quyết định dùng thang
lương 8 bậc để xếp tất cả các hạng công nhân không phân biệt công nhân hưởng chế
độ lương thời kỳ kháng chiến, công nhân hưởng chế độ lương lưu dung hoặc chế độ
mới tuyển dụng. Sau này sẽ nghiên cứu thống nhất chế độ đãi ngộ.
Tùy theo đặc điểm sản xuất của từng
ngành, từng xí nghiệp, mỗi Bộ, mỗi ngành sẽ dựa vào thang lương tiêu biểu 8 bậc
mà định thang lương các hàng sản nghiệp cho các loại công nhân và sẽ đưa Bộ Lao
động duyệt trước khi thi hành. Thang lương 8 bậc này bố trí lại theo thứ tự mới,
từ bậc 8 (thấp nhất) đến bậc 1 (cao nhất).
Những nơi nào đã xếp rồi thì cần
sửa lại con số thứ tự của các bậc. Trước đây bậc 1 là bậc thấp, nay bậc 8 là bậc
thấp người nhất.
2. – Thang lương nhân viên hành
chính và quản trị xí nghiệp:
Bộ Nội vụ đã có Thông tư giải
thích về việc xếp bậc cho cán bộ, nhân viên các cơ quan Chính phủ vào thang
lương 17 bậc của công chức và nhân viên dân cử.
Nhân viên quản trị và hành chính
xí nghiệp sẽ không sắp xếp vào thang lương 17 bậc của công chức.
Nhân viên quản trị và hành chính
xí nghiệp gồm có Chánh, Phó giám đốc, Chánh, Phó quản đốc, Trưởng xưởng, nhân
viên kế toán, kế hoạch, thống kê, thư ký nhà máy, văn thư, v.v.....
Vì tổ chức của các xí nghiệp lớn
nhỏ khác nhau, bộ máy quản lý xí nghiệp về tính chất, quy mô, thành phần cũng
không giống nhau, có ngành trong một xí nghiệp lại có nhiều xí nghiệp to, nhỏ
khác nhau (như Đường sắt).
Cho nên không định một thang
lương hành chính quản trị thống nhất cho tất cả các ngành sản xuất, các xí nghiệp.
Mỗi ngành sẽ dựa vào thang lương
17 bậc của công chức và căn cứ vào đặc điểm sản xuất của từng loại xí nghiệp để
định thang lương cho nhân viên quản trị hành chính của các xí nghiệp và đưa
sang Bộ Lao động duyệt trước khi thi hành.
Mức lương cao nhất của nhân viên
quản trị, hành chính xí nghiệp không được cao hơn mức lương của Giám đốc Nha
cao nhất trong các thang lương công chức.
Mức lương của những nhân viên quản
trị (Chánh, Phó giám đốc, Chánh, Phó quản đốc, Trưởng xưởng, v.v.....) và nhân
viên hành chính thuộc vào loại gián tiếp chủ yếu của xí nghiệp (nhân viên kế hoạch,
thống kê, kế toán kỹ nghệ, v.v.....) được chiếu cố ngành theo 5 loại ở
phân A.
Những nhân viên quản trị và hành
chính ở một số xí nghiệp xây dựng trong kháng chiến, vừa rồi đã được xếp vào
thang lương 10 bậc cũ (theo tiêu chuẩn cũ) nay được xếp lại theo thang lương mới
do từng Bộ, từng ngành xây dựng.
Những nhân viên hành chính các
xí nghiệp tiếp quản hiện hưởng lương theo chế độ lưu dung, nếu tự nguyện, sẽ được
xếp vào thang lương mới như công nhân hưởng chế độ lưu dung.
3. – Thang lương 11 bậc của cán
bộ và nhân viên kỹ thuật:
Trong thời gian qua, nhân viên kỹ
thuật làm việc ở cơ quan đều sắp xếp chung vào một thang lương với cán bộ và
nhân viên hành chính. Nhân viên kỹ thuật ở xí nghiệp xếp vào thang lương 10 bậc
(từ 3 đến 10) vì vậy việc so sánh giữa các loại này và loại khác, việc đãi ngộ
theo công trình đào tạo và sự công hiến của mỗi người chưa được hợp lý. Từ nay
để khuyến khích học tập kỹ thuật, và nâng đỡ những người làm công tác kỹ thuật,
cán bộ nhân viên kỹ thuật sẽ xếp vào một thang lương riêng gồm 11 bậc từ bậc 11
(thấp nhất) đến bậc 1 (cao nhất). Xếp vào thang lương nhân viên kỹ thuật cần
chú ý:
- Tất cả những người làm công
tác kỹ thuật từ những người học việc kỹ thuật, những người giúp việc kỹ thuật,
nhân viên kỹ thuật trung cấp, và nhân viên kỹ thuật cao cấp dù làm việc ở cơ
quan hay xí nghiệp hoặc công trường đều xếp vào thang lương nhân viên kỹ
thuật.
- Ở cơ quan mà làm công tác kỹ
thuật hoặc phụ trách một cơ quan nghiên cứu về kỹ thuật (thí dụ: Viện trồng trọt)
thì mới xếp vào thang lương kỹ thuật. Ở cơ quan mà làm công tác hành chính thì
xếp vào thang lương chung của công chức. Thí dụ: một kỹ sư canh nông làm Trưởng
ty Tài chính thì xếp theo thang lương công chức.
- Nhân viên quản trị ở xí nghiệp
nếu là cán bộ kỹ thuật được xếp vào thang lương nhân viên kỹ thuật. Thí dụ: một
kỹ sư làm Phó giám đốc xí nghiệp sẽ được xếp vào thang lương nhân viên kỹ thuật.
Trái lại một cán bộ chính trị làm Giám đốc xí nghiệp thì xếp vào thang lương
nhân viên quản trị và có thể hưởng lương thấp hơn Phó giám đốc nói trên.
- Mỗi Bộ, mỗi ngành sẽ dựa vào
thang lương nhân viên kỹ thuật tiêu biểu 11 bậc, và căn cứ vào tính chất công
tác, yêu cầu kỹ thuật cụ thể mà xây dựng thang lương và tiêu chuẩn riêng cho
các loại nhân viên kỹ thuật thuộc ngành mình.
Nguyên tắc chung cần chú ý:
1. – Tính chất công việc.
2. – Công trình đào tạo.
3. – Trình độ kỹ thuật.
Không nhất thiết loại nhân
viên kỹ thuật nào cũng bắt đầu xếp từ bậc 11 (thấp nhất) đến bật 1 (cao nhất).
Thí dụ: có loại nhân viên kỹ thuật chỉ xếp từ bậc 9 đến bậc 3.
Nhân viên kỹ thuật từ một trình
độ nhất định đã bắt đầu phục vụ sản xuất có tính chất kỹ thuật thì về mức lương
được chiếu cố ngành như công nhân và nhân viên chủ yếu của xí nghiệp theo 5 loại
đã định ở trên.
Mức lương cao nhất của nhân viên
kỹ thuật cao hơn mức lương của Giám đốc Nha cao nhất trong thang lương công chức.
Nhân viên chuyên môn của các
ngành Y tế và Giáo dục sẽ xếp theo thang lương ngành Y tế và thang lương ngành
Giáo dục. Bộ Y tế, Bộ Giáo dục sẽ cùng Bộ Nội vụ và Bộ Lao động xây dựng các
thang lương riêng này.
Mức lương cao nhất sẽ dựa theo
thang lương kỹ thuật.
Những nhân viên kỹ thuật ở xí
nghiệp hưởng lương theo chế độ lưu dung, nếu tự nguyện, sẽ được xếp vào thang
lương nhân viên kỹ thuật.
4. – Thang lương 6 bậc của lao động
thường:
Lao động thường ở xí nghiệp gồm
có: Gác cổng, quét dọn, liên lạc, giặt áo quần, cần vụ, giữ ngựa, làm vườn, cấp
dưỡng, giữ trẻ, khuân vác, v.v....
Tất cả lao động thường dù làm việc
ở xí nghiệp này hay xí nghiệp khác đều xếp vào một thang lương thống nhất gồm 6
bậc từ bậc 6 đến bậc 1 gọi là thang lương lao động thường. Lao động thường làm
việc ở cơ quan không xếp vào thang lương này.
Lao động thường về mức lương
không có chiếu cố ngành. Dù làm việc ở xí nghiệp này hay xí nghiệp khác nếu
cùng ở một bậc thì đều hưởng một mức lương như nhau. Tùy theo công việc nặng nhẹ;
nhiều hay ít, khó hay dễ mà xếp bậc trên dưới khác nhau để hưởng lương khác
nhau.
Mức lương cao nhất của thang
lương lao động thường bằng mức lương bậc 12 của thang lương công chức.
Bộ Lao động sẽ cùng Bộ Nội vụ và
các Bộ sử dụng công nhân xây dựng lại tiêu chuẩn và định biểu cấp bậc cho từng
loại lao động thường.
C. - MỨC
LƯƠNG THẤP NHẤT VÀ LƯƠNG CAO NHẤT:
1. – Lương thấp nhất:
Lương thấp nhất nhằm đảm bảo
sinh hoạt tối thiểu cho một người lao động không có nghề chuyên môn sức khỏe
trung bình để có thể lao động được bình thường trong điều kiện làm việc bình
thường.
Chính phủ đã quy định lương thấp
nhất chung cho toàn quốc là 26.000đ mỗi tháng.
Mức lương thấp nhất 26.000 thi
hành trong tất cả các cơ quan, xí nghiệp Chính phủ và doanh nghiệp quốc gia. Mức
lương này không thi hành trong các xí nghiệp tư nhân.
Lương thấp nhất gồm các khoản
ăn, mặc và các chi tiêu khác. Từ nay Chính phủ chỉ trả lương bằng tiền. Các cơ
quan Mậu dịch có trách nhiệm bán, cung cấp gạo, vải, muối, củi và giữ vững giá
cả những thứ hàng chính để đảm bảo mức sinh hoạt tối thiểu.
2. - Phụ cấp khu vực:
Để chiếu cố đến tình hình sinh
hoạt và tính chất trọng yếu về chính trị, kinh tế và xã hội của một thủ đô,
Chính phủ đặt một khoản phụ cấp khu vực cho Hà nội bằng 5,8% lương bản thân,
lương thấp nhất lĩnh tại Hà nội là 27.500đ.
Đối với những địa phương về sinh
hoạt và công tác có tính chất đặc biệt như một số Châu thuộc Khu tự trị Thái
mèo phụ cấp khu vực sẽ do Liên Bộ Nội vụ-Lao động-Tài chính quy định sau.
3. – Lương cao nhất:
- Lương cao nhất của cán bộ dân
cử và nhân viên hành chính ở cơ quan gấp 6,15 lần lương thấp nhất.
- Tính mức lương bậc 6 là lương
cao nhất của nhân viên hành chính tuyển dụng thì gấp 2,65 lần lương thấp nhất.
- Lương cao nhất của công nhân gấp
2,10 lần lương thấp nhất.
- Lương cao nhất của nhân viên kỹ
thuật gấp 3,00 lần lương thấp nhất.
- Lương cao nhất của lao động
thường gấp 1,40 lần lương thấp nhất.
Bộ Lao động sẽ dựa vào mức lương
thấp nhất và cao nhất nói trên, ấn định mức khởi điểm và tối đa cho từng ngành
sản xuất theo sự phân loại nói ở phần A. Mỗi ngành sẽ dựa vào mức khởi điểm và
tối đa do Bộ Lao động đã định mà bố trí thang lương, mức lương thích hợp với từng
loại sản nghiệp.
4. - Mức lương:
a) Sau khi xếp bậc, công nhân và
nhân viên sẽ hưởng lương theo các mức lương quy định cho mỗi bậc trong các
thang lương kể từ 1-7-1955.
b) Những thợ chuyên môn làm việc
ở cơ quan như: tài xế, thợ máy, thợ mộc, v.v..... nếu làm đúng nghề mình, thì
sau khi sắp xếp sẽ hưởng mức lương của loại 5 trong thang lương tiêu biểu 8 bậc.
Dù làm việc ở cơ quan này hay cơ quan khác, nếu cùng xếp vào một bậc thì đều hưởng
lương như nhau.
c) Việc sắp xếp công nhân lưu
dung, cần có chuẩn bị đả thông kỹ. Công nhân hưởng lương theo chế độ lưu dung
sau khi sắp xếp nếu lương mới thấp hơn lương hiện lãnh thì được tiếp tục hưởng
lương hiện tại.
Trái lại nếu lương mới cao hơn
lương hiện tại, thì được hưởng lương mới, kể từ ngày chính thức xếp vào bậc mới
(không truy lĩnh từ 1-7-1955). Tiền thưởng năng suất của công nhân hưởng lương
theo chế độ lưu dung, sẽ tính theo mức lương của ngạch bậc mới sau khi đã sắp xếp.
Những nhân viên hành chính và
nhân viên kỹ thuật ở xí nghiệp hưởng lương theo chế độ lưu dung, nếu tự nguyện
thì được sắp xếp. Sau khi sắp xếp về mức lương cũng dựa theo nguyên tắc áp dụng
đối với công nhân theo chế độ lương lưu dung.
d) Công nhân tuyển dụng vào các
xí nghiệp mới phục hồi hoặc mới xây dựng như nhà máy tơ, nhà máy sợi Nam Định,
nhà máy xi-măng Hải Phòng, v.v..... sẽ được xếp vào thang lương 8 bậc. Nhưng về
mức lương sẽ hưởng một chế độ lương khác không có phần bán cung cấp và phụ cấp
xã hội do Bộ Lao động và Bộ Công nghiệp nghiên cứu và quy định.
Hiện nay vì tạm thời còn giữ hai
chế độ: bán cung cấp và lưu dung cho nên về các quyền lợi khác như phụ cấp con,
phụ cấp sinh đẻ, đau ốm, v.v.... lâu nay công nhân viên hưởng theo chế độ kháng
chiến hoặc công nhân, viên hưởng theo chế độ lưu dung, đã hưởng đã hưởng như thế
nào thì tạm thời chưa thay đổi.
Trong khi chờ đợi nghiên cứu một
quỹ xã hội, tạm thời các khoản phụ cấp xã hội như phụ cấp con vẫn thi hành theo
chế độ hiện hành. Những người nào đến nay không được hưởng chế độ phụ cấp con,
thì chờ đợi thành lập một quỹ xã hội giải quyết sau.
D. – LƯƠNG CỦA
CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG CÁC CÔNG TRƯỜNG:
1. – Lương ở các công trường hiện
nay có nhiều chế độ: miền Nam, thất nghiệp, v.v...Để tiến tới thống nhất chế độ.
Chính phủ đã ấn định mức lương cho công nhân lao động trên các công trường (trừ
dân công) là 27.000đ mỗi tháng, tức là 1.080đ mỗi ngày (Nghị định số 651-TTg
ngày 30-12-1955 của Thủ tướng Chính phủ ).
Mức lương 27.000đ mỗi tháng hoặc
1.080đ mỗi ngày là mức lương chung của đại bộ phận công nhân lao động trên công
trường. Các ngành sẽ dựa vào mức lương đó và căn cứ vào tính chất công việc của
các loại lao động trên công trường, cùng với Bộ Lao động định những mức lương
thích hợp để thực hiện chế độ làm khoán.
Đối với những công việc tương đối
nhẹ như đan sọt, rổ, làm quang gánh, v.v.... lương chỉ trả ngang với mức thấp
nhất chung của cơ quan và xí nghiệp là 26.000đ mỗi tháng hoặc 1.040đ mỗi ngày.
Đối với những công việc nặng nhọc
hoặc đòi hỏi ít nhiều kỹ thuật, mức lương sẽ định cao hơn 27.000đ.
2. – Đối với công nhân các thành
phố hưởng theo chế độ lương công nhân thất nghiệp hiện nay đã lĩnh 2 cân 500 và
3 cân mỗi ngày, tạm thời giữ nguyên mức lương đó nhưng trả theo giá bình ổn
trung bình hàng tháng của địa phương. Khi có điều kiện sẽ thống nhất vào chế độ
lương mới của công trường. Thí dụ: khi công trường làm xong công việc, anh em
được chuyển đến làm ở một công trường khác thì không giữ nguyên mức lương cũ mà
hưởng theo mức lương khoán việc hoặc công nhật của công trường mới.
Hiện nay thời kỳ tiếp quản đô thị
đã qua, các công trường và xí nghiệp mở nhiều, đòi hỏi tuyển dụng rất nhiều
công nhân lao động. Những công nhân có nghề và đang được đưa dần trở về xí nghiệp.
Tình trạng thất nghiệp không còn như ngày mới tiếp quản đô thị. Cho nên chế độ
lương thất nghiệp không thể tồn tại nữa.
Thực tế, anh em là những người
có công ăn việc làm trên công trường đã một năm nay, không phải là những người
thất nghiệp.
3. – Công nhân và nhân viên thuộc
biên chế của các ngành làm việc ở các công trường được xếp vào các thang lương
và hưởng lương như công nhân và nhân viên ở các xí nghiệp và cơ quan.
4. – Đối với công nhân miền Nam,
về lương bổng đều thống nhất vào chế độ lương chung của công trường. Ngoài ra
Chính phủ đã có những đãi ngộ đặc biệt như phụ cấp con 20 cân, áo bông,
v.v...Các công trường sẽ chú ý chuyển anh chị em miền Nam vào làm các xí nghiệp
để trở thành thợ có nghề. Trong khi chuyển dần vào các xí nghiệp để chiếu cố
anh chị em miền Nam chưa quen khí hậu. Công nhân miền Nam vẫn tiếp tục hưởng
lương tháng.
5. – Nói chung công nhân lao động
làm trên công trường đều hưởng theo chế độ công nhật và lương khoán việc (trừ
công nhân miền Nam và dân công).
Những ngày chủ nhật, ngày nghỉ về
thăm gia đình không hưởng lương.
Những ngày không làm việc được
vì mưa bão, lụt, v.v..... công trường sẽ đảm bảo mức ăn cho các loại là 630đ một
ngày. Còn cán bộ B và C trong những ngày công nhân nghỉ nếu cũng phải làm việc
thì được trả cả lương.
Những ngày lễ chính thức, ngày
chuyển quân từ nơi này qua nơi khác, ngày được công trường cử đi học, đi dự hội
nghị đều được hưởng cả lương.
Những ngày nghỉ vì đau ốm, cán bộ
cũng như công nhân đều được đảm bảo mức ăn 630đ mỗi ngày, chưa kể tiền bồi dưỡng
do bác sĩ, y tá đề nghị cấp (nếu có).
Cán bộ phụ trách các bộ phận
công tác ở công trường (như cán bộ A, B, C) ngoài lương bản thân được hưởng một
khoản phụ cấp chức vụ sẽ quy định sau.
Chế độ lương công trường này thi
hành ngày nào, công nhân được hưởng theo chế độ mới ngày ấy, không đặt vấn đề
truy lĩnh kể từ ngày ban hành Nghị định Thủ tướng Phủ.
Bộ Lao động sẽ quy định toàn bộ
chế độ lao động cho các công trường.
III. – NHIỆM
VỤ CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN CÁC NGÀNH SỬ DỤNG CÔNG NHÂN.
Việc ban hành chế độ lương mới
này có một ý nghĩa quan trọng. Các ngành sử dụng công nhân, các cấp chính quyền
các cơ quan lao động cần nhận rõ trách nhiệm của mình mà chấp hành nghiêm chỉnh.
Phải làm cho mọi người nhận thấy sự chăm nom của Hồ Chủ tịch, Đảng và Chính phủ
mà tích cực thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, đề cao cảnh giác bảo vệ xí
nghiệp. Mọi người lao động phải cố gắng sửa đổi lề lối làm việc, cải tiến
kỹ thuật, đẩy mạnh năng suất lao động giảm giá thành, quản lý tốt các xí nghiệp.
Muốn được như vậy trong việc sắp xếp phải lãnh đạo chặt chẽ, để cho mọi người
được dùng đúng tài năng và thù lao đúng khả năng sản xuất. Nếu có người không
dùng đúng chỗ thì phải điều chỉnh cho thích hợp. Không nên cố giữ lại mà trả
lương thấp. Nói căn cứ thực tế mà trả lương là trước tiên nói đến việc dùng người,
dùng nghề và đúng khả năng.
Phải chú trọng lãnh đạo sắp xếp
cho đúng, tránh suy bì rất có hại cho sản xuất, hoặc làm cho chán nản công tác.
Kết quả việc sắp xếp và trả lương mới này là làm cho mọi người vui lòng
phấn khởi sản xuất. Nhưng đồng thời cũng chú ý tránh bừa bãi mà nhất loạt xếp
lên cao quá khả năng thực tế.
Sau đây là những điểm chính về
nhiệm vụ và kế hoạch thực hiện. Các ngành, các cấp sẽ dựa vào đó và căn cứ vào
tình hình cụ thể của ngành mình, của địa phương mình mà vạch kế hoạch cụ thể
thi hành.
1. – Lãnh đạo tư tưởng:
Phải tuyên truyền giải thích, phổ
biến rộng rãi, tổ chức học tập mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc và nội dung của chế
độ lương mới cho cán bộ và công nhân, nhân viên để quyết tâm và tin tưởng chấp
hành. Cần quan niệm rõ, nếu làm được tốt, thì mỗi lần điều chỉnh lương bổng là
một dịp giáo dục, nâng cao lập trường tư tưởng, khuyến khích nâng cao trình độ
nghề nghiệp cho cán bộ và công nhân, nhân viên, do đó mà càng kích thích công
cuộc thi đua phát triển sản xuất.
Việc lãnh đạo tư tưởng phải chặt
chẽ, kịp thời. Cần đề phòng những tư tưởng sai lệch sau đây:
a) Sốt ruột, cho công nhân, nhân
viên đã chờ lâu ngày, nên làm qua loa vội vàng để cho anh em được hưởng lương mới
ngay, mà không chú ý đảm bảo mục đích, ý nghĩa chính trị, không đạt được tác dụng
giáo dục công nhân và phát triển sản xuất.
Ngược lại cũng phải đề phòng tư
tưởng cầu toàn, để kéo rê thời gian, nhất là công việc vào cuối và đầu năm lại
dồn dập làm cho công nhân viên chờ đợi chán nản, sinh ra thắc mắc.
Phương châm tiến hành là phải thận
trọng.
b) Coi nhẹ vấn đề, cho việc điều
chỉnh lương lần này không cải thiện đời sống cho công nhân được đầy đủ
nên kém tin tưởng mà không nhận rõ sự cố gắng của Chính phủ, tác dụng của việc
điều chỉnh lương đối với sản xuất, với việc đảm bảo sử dụng công nhân, nhân
viên hợp lý cũng như đối với việc giáo dục công nhân, nhân viên.
c) Nặng về cải thiện đời sống
cho công nhân, nhân viên không chú ý đến ảnh hưởng đối với ngân sách, đối với sản
xuất, dễ dãi trong việc xếp bậc, làm một cách bình quân, bố trí các thang lương
và chỉ số quá cao.
d) Cục bộ, cho ngành mình, xí
nghiệp mình quan trọng, không nhìn qua các ngành khác, để giữ một tương quan hợp
lý giữa các thang lương cũng như trong việc thực hiện xếp bậc cho công nhân,
nhân viên.
2. – Lãnh đạo tổ chức thực hiện:
a) Muốn cho việc thực hiện chế độ
lương công nhân thu được kết quả tốt, cần phải có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ
và chu đáo.
Đối với những ngành trước đây
chưa thực hiện xếp bậc cho công nhân, nhân viên hoặc đại bộ phận công nhân chưa
được sắp xếp (như đường sắt, công nghiệp,v.v....) cần phải tiến hành các
bước công tác sau đây:
1. – Tính khoản, nắm tổng số
công nhân, tổng số lương cũ và mới, tính lương trung bình để biết rõ tỉ lệ tiền
lương tăng bao nhiêu, và so sánh ảnh hưởng ngân sách.
Dựa vào chế độ lương chung, lập
đề án lương của ngành mình đưa Bộ Lao đông duyệt. Chú ý:
- Nêu nguyên tắc, phương châm,
chủ trương.
- Phân hạng sản nghiệp thuộc
ngành mình. Dựa vào mức khởi điểm và tối đa do Bộ Lao động định, định khởi điểm
tối đa cho mỗi hạng sản nghiệp.
Bố trí các thang lương thích hợp
để sắp xếp công nhân, nhân viên quản trị và hành chính, nhân viên kỹ thuật thuộc
ngành mình.
- Xây dựng tiêu chuẩn để sắp xếp
công nhân, nhân viên.
2. - Vạch kế hoạch cụ thể tiến
hành sắp xếp. Thực hiện thí điểm tổ chức học tập, huấn luyện cán bộ trong
ngành.
3. – Tổ chức bộ máy sắp xếp từ
Trung ương xuống đến đơn vị.
Thành phần, nhiệm vụ và quyền hạn
của các bộ máy xếp bậc sẽ quy định sau.
4. – Tổ chức học tập mục đích ý
nghĩa, nguyên tắc nội dung chế độ lương, tiêu chuẩn nghề nghiệp cho công nhân
viên và tiến hành sắp xếp.
5. – Duyệt các bản xếp bậc, công
bố cho toàn thể công nhân, nhân viên thi hành mức lương mới. Nguyên tắc duyệt cấp
bậc đã quy định trong điều lệ sắp xếp công nhân của Bộ Lao động: xí nghiệp
thuộc cấp nào quản lý thì cấp ấy duyệt bậc cho công nhân xí nghiệp đó.
Về kế hoạch tỉ mỉ và thời gian,
mỗi ngành sẽ tùy theo tình hình cụ thể của ngành mình mà định lấy. Nhưng
không nên kéo dài thời gian.
b) Đối với những ngành trước đây
đã tiến hành sắp xếp công nhân, nhân viên rồi, nay cũng cần soát lại và điều chỉnh
cho thích hợp với tinh thần chế độ lương này.
1. – Soát lại các tiêu chuẩn nghề
nghiệp, điều chỉnh, bổ sung những điểm không hợp lý hoặc còn thiếu sót, xây dựng
những tiêu chuẩn chưa có (chú ý tiêu chuẩn của nhân viên kỹ thuật, nhân viên quản
trị, hành chính xí nghiệp).
2. – Soát lại và điều chỉnh các
thang lương cho thích hợp nhất là thang lương của nhân viên kỹ thuật, của nhân
viên quản trị và hành chính xí nghiệp, của lao động thường.
3. – Soát lại việc xếp bậc đầu
năm, điều chỉnh lại cho hợp lý và duyệt các bản sắp xếp của cơ sở.
c) Mấy vấn đề về lãnh đạo cần
chú ý:
- Cần có sự phối hợp mật thiết
giữa các ngành sử dụng công nhân các cơ quan lao động và Liên hiệp công
đoàn địa phương. Các cấp chính quyền Khu, Tỉnh phải thực sự lãnh đạo các cơ
quan trên phối hợp chặt chẽ để thi hành đúng đắn chế độ lương mới không
khoán trắng cho một ngành.
- Trong khi tiến hành xếp bậc,
chủ yếu cán bộ lãnh đạo phải nắm được khả năng của công nhân, nhân viên, đồng
thời tranh thủ ý kiến của quần chúng một cách thích đáng để sắp xếp cấp bậc cho
anh em được sát.
Việc bình nghị của anh em không
có tính chất quyết định. Việc sắp xếp cấp bậc chỉ nên công bố sau khi cấp trên
đã duyệt y.
- Trong thời gian chuẩn bị, phải
giữ gìn bí mật, để lộ ra sớm ngày nào sẽ không lợi cho sản xuất ngày ấy. Tài liệu
đem phổ biến phải có kế hoạch, nên công bố lúc nào, sẽ công bố lúc ấy. Thí dụ:
trong khi học tập tiêu chuẩn, tiến hành sắp xếp không nên phổ biến chỉ số mức
lương.
- Việc xếp bậc cho công nhân,
nhân viên hưởng lương theo chế độ lưu dung, cần phải thận trọng, có sự chuẩn bị
đầy đủ chu đáo, dựa vào tinh thần tự nguyện của anh em, không nên làm một cách
miễn cưỡng gò ép, gây ảnh hưởng không tốt về phương diện chính trị.
Việc thi hành chế độ lương mới
có một ý nghĩa quan trọng. Nó cũng là một động tác tỉ mỉ, phức tạp. Cho nên
lãnh đạo phải chặt chẽ, tập trung có trọng tâm, trọng điểm. Kế hoạch phải cụ thể,
sát thực tế, kỷ luật thỉnh thị báo cáo phải giữ vững, làm cho chủ trương kế hoạch
thông suốt từ trên xuống dưới.
Các văn bản trước của Bộ trái với
tinh thần Thông tư này đều bãi bỏ.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|