BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-LĐ
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 01 năm 1957
|
THÔNG TƯ
TẠM THỜI HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CÁC LOẠI TIỀN THƯỞNG ÁP DỤNG
CHO CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC GIA VÀ QUỐC DOANH
Trong phong trào thi đua thực hiện
kế hoạch Nhà nước, công nhân và nhân viên xí nghiệp đã có nhiều cố gắng. Nhiều
cá nhân tăng năng suất; nhiều đơn vị xí nghiệp đã hoàn thành và hoàn thành vượt
mức kế hoạch từng thời gian. Trong quá trình sản xuất đã có nhiều sáng kiến có
tác dụng tăng năng suất, tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng, giảm
giá thành sản phẩm.
Để khuyến khích công nhân cố gắng
trau dồi nghề nghiệp phát huy nhiệt tình lao động, thi đua hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, đồng thời để bồi dưỡng cho những người có
thành tích cố gắng trong sản xuất, cần nghiên cứu đặt các loại tiền thưởng như
là:
- Thưởng tăng năng suất.
- Thưởng hoàn thành nhiệm vụ.
- Thưởng tiết kiệm.
- Thưởng sáng kiến phát minh.
Trong khi chờ đợi Chính phủ ban
hành bản điều lệ chính thức, Bộ Lao động tạm thời hướng dẫn việc áp dụng các loại
tiền thưởng trên để rút kinh nghiệm.
Mong các Bộ, các ngành, chiếu
theo những nguyên tắc đề ra ở Thông tư này, cùng với Bộ Lao động đặt kế hoạch cụ
thể cho xí nghiệp tiến hành và theo dõi một vài thi điểm để rút kinh nghiệm.
A - THƯỞNG
TĂNG NĂNG SUẤT:
a) Thưởng tăng năng suất áp dụng
cho những công nhân trực tiếp sản xuất quy định như dưới đây:
Thưởng tăng năng suất áp dụng cho
những người công nhân ăn lương tháng, ăn lương ngày, hoặc lương giờ, đã vượt mức
sản xuất hoặt rút ngắn tiêu chuẩn thời gian sản xuất do xí nghiệp ấn định.
Thí dụ: Ở một xí nghiệp dệt.
Mức sản xuất ấn định là 22 thước,
nếu dệt được trên 22 thước là tăng năng suất và được thưởng phần dệt vượt mức ấy.
Ở một xí nghiệp sửa chữa.
Mức sản xuất ấn định cho một thợ
đúc phải làm là một piston, một segment, hai pignon trong 8 tiếng. Nếu người thợ
đó đã thực hiện được mức sản xuất trong 7 tiếng thì được thưởng tăng năng suất
theo thời gian đã rút ngắn, tức là 1 tiếng.
- Việc quy định thưởng tăng năng
suất phải nhằm khuyến khích những cá nhân hay đơn vị sản xuất trực tiếp làm ra
những sản phẩm chính của xí nghiệp cần đẩy mạnh tăng năng suất hoặc rút ngắn
tiêu chuẩn thời gian sản xuất để đảm bảo được kế hoạch kinh doanh của xí nghiệp
và hạ giá thành. Tránh thưởng tràn lan, không có tác dụng khuyến khích đẩy mạnh
sản xuất. Và giải quyết những khâu yếu trong sản xuất.
Thí dụ: Mỏ than Hồng Gai.
Sản xuất than hoa cần đẩy mạnh tăng số lượng thì áp dụng tiền thưởng tăng năng
suất. Ngược lại than cám sản xuất có hạn hoặc không tiêu thụ được thì không đặt
ra tiền thưởng tăng năng suất.
b) Mức ấn định hàng tháng:
Được tính thưởng tăng năng suất
những người đã cố gắng vượt mức hàng tháng (ngày tăng bù cho ngày hụt mức) và đảm
bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn nguyên vật liệu.
Những công việc do nhiều người hợp
lực với nhau mới làm thành thì mức sản xuất và cách tính thưởng sẽ áp dụng
chung cho số người đó (kíp, nhóm).
Thí dụ: 4 người thành 1
kíp rèn, kíp xeo gỗ, 2 người thành 1 cặp xẻ gỗ thì mức sản xuất và cách tính
thưởng tăng năng suất đặt chung cho cả kíp trên, kíp xeo gỗ và cặp xẻ gỗ.
2. - Mức hàng tháng định ra căn
cứ theo số giờ thực tế phải sản xuất trong tháng. Thí dụ: Trường hợp người
công nhân ốm phải nghỉ việc thì chỉ được trừ mức không sản xuất của những ngày
nghỉ đã quy định theo tỉ lệ ốm trung bình hàng tháng cho công nhân trong xí
nghiệp.
c) Cách đặt mức:
1. – Cùng một cấp bậc, cùng làm
một tiêu chuẩn công việc, cùng sử dụng những phương tiện sản xuất như máy móc,
nguyên vật liệu giống nhau thì quy định một mức như nhau. Mức này phải là mức
trung bình tiên tiến.
2. – Cách tính:
Thí dụ: 8 thợ xeo cấp bậc 5 năng
suất hàng ngày:
a. – 2 người 1.200 tờ.
b. – 2 người 1.250 tờ.
c. – 1 người 1.320 tờ.
d. – 1 người 1.350 tờ.
e. – 2 người 1.400 tờ
Mức trung bình bình quân:
(1200x2)+(1250x2)+
|
1320+1350+(1400x2)
|
=1304
tờ
|
8
|
- Căn cứ mức 1.304 tờ; cán bộ
chuyên môn, kỹ thuật và công đoàn theo dõi số người mức chênh lệch khác nhau mà
xem xét lề lối và phương pháp làm việc, việc bố trí dụng cụ và nguyên vật liệu
còn có gì bổ cứu cho tiến bộ hơn. Sau khi bổ cứu xong thì đặt một mức cao hơn
1.304 tờ mà mức ấy đa số công nhận có cố gắng và thực hiện theo phương
pháp mới thì đạt được. Tăng lên bao nhiêu hay đạt mức bao nhiêu là tuỳ theo
tình hình thực tế sau cuộc nghiên cứu đó. Đó là mức trung bình tiên tiến. Cần
chú ý tăng lên bao nhiêu trên mức 1.304 tờ phải có lý do cụ thể phân tích trình
bày cho công nhân thấy rõ.
Trên đây là một phương pháp tìm
mức trung bình tiên tiến. Khi đặt mức trung bình tiên tiến phải đối chiếu với
thực tế khả năng của công nhân mà xây dựng cho thích hợp. Mức trung bình
tiên tiến đặt ra là để cho người công nhân nào có cố gắng sẽ đạt được mức.
Nếu không cố gắng mà ai cũng đạt được thì mức đó quá thấp.
3. - Thời gian định lại mức
không dưới 3 tháng; nhưng gặp những trường hợp sản xuất vượt hẳn lên vì có
những sự thay đổi trong sản xuất như: có những sáng kiến phát minh mới, có sự sửa
đổi về phương pháp chế tạo, có sự thay đổi lớn trong tổ chức lao động, máy móc,
nguyên vật liệu thì mức có thể thay đổi ngay sau khi đa số người đã làm quen
tay và vượt mức ấn định một cách dễ dàng.
d) Tiền thưởng tăng năng suất
tính theo cách sau đây:
Lương và phụ cấp khu vực
|
X số vượt mức X tỷ lệ thưởng
|
Mức
ấn định
|
Nhưng để tính thưởng tăng năng
suất là số lương trong thang lương 8 bậc áp dụng cho các xí nghiệp Chính phủ và
quốc doanh (kể cả xí nghiệp khôi phục và tiếp quản).
2. - Nếu nhiều người thợ cấp bậc
khác nhau cùng làm 1 loại sản phẩm như nhau thì lấy lương bình quân của những
người thợ đó để tính thưởng.
Thí dụ: 5 thợ dệt bậc 4 lương mỗi
người 35.000đ mức ấn định 500m, 8 thợ dệt bậc 5, lương 32.000đ mức ấn định
400m.
Cách tính là:
(35.000x5)
+ (32.000x8)
|
X số vượt mức X tỉ lệ thưởng
|
(500x5)
+ (400x8)
|
Trong trường hợp này cấp lãnh đạo
xí nghiệp cần chú ý điều chỉnh lại, bố trí những người thợ cùng làm một công việc
như nhau, mà cấp bậc không chênh lệch quá xa để khỏi ảnh hưởng đến tiền thưởng
của công nhân.
3. - Trường hợp kíp, nhóm, sản
xuất một thứ sản phẩm thì lấy tổng số tiền lương và phụ cấp khu vực của công
nhân trong kíp, nhóm chia cho mức ấn định của kíp, nhóm rồi nhân với số vượt mức
và tỉ lệ thưởng.
Thí dụ: một nhóm rèn bù loong
có:
- 1 thợ cả bậc 6 lương 30.420đ
- 2 thợ phụ bậc 7, 8 28.860đ
27.560đ
Hàng tháng mức ấn định là 500 bù
loong.
Cách tính:
30.420đ
+ 28.860đ + 27.560đ
|
X số vượt mức X tỉ lệ thưởng
|
500
|
Việc phân phối số tiền thưởng
cho từng cá nhân sẽ do kíp, nhóm phân phối trên cơ sở cấp bậc kỹ thuật, ngày đi
làm và hiệu suất của từng người.
4. - Trường hợp điều động thợ cấp
bậc cao xuống làm công việc của thợ cấp bậc thấp mà tiêu chuẩn công việc như
nhau thì lương để tính thưởng là lương của cấp bậc thấp đó. Thí dụ: tiện bù
loong thì chỉ cần cấp bậc 6 đủ khả năng để làm xí nghiệp điều động thợ cấp bậc
4 và 3 đến cùng làm thì lương tính thưởng là lương của cấp bậc 6.
Trường hợp không hợp lý này, phải
cố tránh, để khỏi gây ra thắc mắc cho công nhân.
e) Tổ chức thống kê theo dõi mức
và kiểm tra chất lượng:
Để xây dựng mức sản xuất được
chính xác và đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng, mỗi xí nghiệp cần
kiện toàn những tổ chức dưới đây:
1. – Căn cứ một số cán bộ phụ
trách nghiên cứu theo dõi hướng dẫn. Tổ chức thống kê theo dõi mức sản xuất đồng
thời kết hợp với việc chấn chỉnh lề lối làm việc, giảm bớt những động tác thừa,
nâng cao trình độ kỹ thuật cho công nhân để ấn định mức cho thích hợp.
2. - Mặt khác, khi xây dựng mức
sản xuất phải kèm theo tiêu chuẩn về kỹ thuật và chất lượng của sản phẩm và tổ
chức kiểm tra chặt chẽ khi giao nhận hàng.
f) Tỉ lệ thưởng:
Tỉ lệ thưởng trong các xí nghiệp
Chính phủ và doanh nghiệp quốc gia ấn định từ 40% đến 60% của giá trị tiền công
của một sản phẩm tăng năng suất. Đặt tỉ lệ thường cần phân biệt chiếu cố như
sau:
- Tùy theo tính chất sản xuất và
tầm quan trọng từng bộ phận sản xuất trong xí nghiệp mà ấn định tỉ lệ thưởng.
- Bộ phận có tính chất quan trọng
nhất trong sản xuất đối với việc hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp sẽ đặt
tỉ lệ cao hơn.
- Bộ phận hiện gặp nhiều khó
khăn trở ngại trong sản xuất hay là bộ phận đang thực hiện chương trình đột
kích quan trọng, tỉ lệ thường có thể cao hơn các bộ phận khác.
g) Cách trả tiền thưởng tăng
năng suất:
Tiền thưởng tăng năng suất sẽ
tính hàng tháng và trả trong vòng 10 ngày đầu tháng sau.
h) Phải làm gì để đẩy mạnh sản
xuất:
Các cấp lãnh đạo xí nghiệp có
trách nhiệm bố trí sản xuất cho hợp lý; nghiên cứu ấn định mức sản xuất chính
xác và luôn luôn theo dõi giúp đỡ phổ biến kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, giúp
đỡ công nhân nâng cao trình độ kỹ thuật để tạo điều kiện tốt cho công nhân đạt
được mức và vượt mức.
- Nếu công nhân không đạt được mức
thì cấp lãnh đạo phải tổ chức kiểm điểm tìm nguyên nhân bổ cứu và giúp đỡ công
nhân thực hiện được mức. Công nhân có thể yêu cầu tìm nguyên nhân không đạt được
mức để bổ cứu nhanh chóng.
- Căn cứ vào cấp bậc, nhiệm vụ của
người công nhân phải tích cực sản xuất theo khả năng lao động của mình cố gắng
tìm cách và luôn luôn có tinh thần hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
- Mỗi người công nhân có nhiệm vụ
trao đổi kinh nghiệm và phương pháp làm việc của mình giúp đỡ cho người khác học
tập, để mỗi người cùng thực hiện được mức ấn định.
B - THƯỞNG
HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ
a) Thưởng hoàn thành nhiệm vụ áp
dụng riêng cho những người sau đây:
1. – Công nhân trực tiếp sản xuất
làm những công việc phức tạp không ấn định được mức rõ ràng hay không cần thiết
tăng số lượng.
2. – Người lao động vận chuyển,
cung cấp nguyên vật liệu cho công nhân trực tiếp sản xuất.
3. – Cán bộ nhân viên kế hoạch,
kỹ thuật và cán bộ nhân viên hành chính quản trị của xí nghiệp.
Công nhân đã quy định thưởng chế
độ thưởng tăng năng suất thì không được áp dụng thưởng theo chế độ hoàn thành
nhiệm vụ.
b) Thưởng
hàng tháng:
Hàng tháng, nếu ngành hay bộ phận
đạt được kế hoạch, thì những người công nhân trực tiếp, gián tiếp sản xuất, người
lao động vận chuyển, cung cấp nguyên vật liệu cho công nhân trực tiếp sản xuất
kể trên có thể xét thưởng hoàn thành nhiệm vụ. Căn cứ vào chương trình ấn định
cho cá nhân hay bộ phận, nếu cá nhân làm tròn nhiệm vụ theo tiêu chuẩn quy định
của xí nghiệp, sẽ được xét thưởng từ 3% đến 10% lương bản thân và phụ cấp khu vực.
Việc thưởng này sẽ căn cứ vào điều
kiện làm việc và tính chất quan trọng của công việc và dùng phương pháp dân chủ
bình nghị mà định thưởng cho từng người. Số tiền thưởng cao nhất của một người
không thể nhiều hơn số tiền thưởng cao nhất của một công nhân trực tiếp sản
xuất được thưởng tăng năng suất.
c) Thưởng sau
3 tháng (từng quý):
1. - Đối với cán bộ và nhân viên
kế hoạch, kỹ thuật và cán bộ nhân viên hành chính trực tiếp liên quan đến việc
điều khiển sản xuất, sau mỗi thời gian 3 tháng nếu hoàn thành kế hoạch của xí
nghiệp về mọi mặt số lượng, chất lượng, giá thành, thì những cá nhân làm tròn
nhiệm vụ theo nội dung công tác quy định sẽ được dân chủ bình nghị để thưởng
theo tỉ lệ từ 5% đến 15% của một tháng lương bản thân và phụ cấp khu vực.
- Mỗi lần xí nghiệp vượt kế hoạch
1% thì những cán bộ và nhân viên này được xét thưởng thêm từ 1 đến 4% lương và
phụ cấp khu vực.
Nhưng đối với cán bộ tổng cộng số
tiền thưởng nhiều nhất không quá 1 tháng lương và phụ cấp khu vực bản thân. Đối
với nhân viên thì không quá 50% một tháng lương và phụ cấp khu vực của bản
thân.
Việc quy định cụ thể số cán bộ
nhân viên kế hoạch, kỹ thuật và cán bộ nhân viên hành chính được thưởng trên
đây và xét duyệt tỉ lệ thưởng do Bộ sở quan quyết định.
2. - Những cán bộ nhân viên quản
trị hành chính không thuộc phạm vi đã kể trên như cán bộ nhân viên văn phòng kế
toán hành chính, liên lạc, cấp dưỡng thì căn cứ kế hoạch xí nghiệp có hoàn
thành hoặc hoàn thành vượt mức từng 3 tháng, tùy theo thành tích từng cá nhân
làm tròn nhiệm vụ thì do dân chủ bình nghị xét thưởng từ 5% đến 15% của một
tháng lương bản thân.
C. THƯỞNG TIẾT
KIỆM NGUYÊN VẬT LIỆU.
1. - Thưởng tiết kiệm áp dụng
cho những công nhân đã tiết kiệm hoặc thu nhặt được những nguyên vật liệu chủ yếu
nhằm giải quyết vấn đề khó khăn trong sản xuất và hạ được giá thành. Tiết kiệm
được nguyên vật liệu nhưng phải đảm bảo số lượng phẩm chất đúng tiêu chuẩn kỹ
thuật và đảm bảo an toàn máy móc thì mới được thưởng.
2. - Thời gian tính thưởng: tiền
thưởng tiết kiệm sẽ tính từng thời gian 3 tháng, do cơ sở đề nghị lên Bộ sở
quan trích mộ phần tiền trong số tiền đã tiết kiệm được sẽ thưởng. Bộ sở quan sẽ
cùng với Bộ Lao động để xét duyệt.
D. - THƯỞNG SÁNG KIẾN PHÁT MINH
a) Phân loại sáng kiến phát
minh:
1. - Sửa đổi lề lối làm việc là
những sáng kiến có hiệu quả trong việc bố trí, sử dụng máy móc, sử dụng nguyên
liệu, sử dụng lao động như những trường hợp dưới đây:
a) Những sửa đổi lề lối làm việc
làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu suất máy móc dụng cụ hoặc kéo dài thời
gian sử dụng máy móc.
b) Những sửa đổi về bố trí cách
làm việc, bố trí lao động hợp lý, bớt người nhưng năng suất tăng.
c) Có những sửa đổi lề lối làm
việc tiết kiệm được nguyên liệu, nhiên liệu hoặc dùng được những vật liệu hư hỏng.
d) Những sửa đổi lề lối làm việc
tăng chất lượng và làm giảm mức hư hỏng của sản phẩm.
2. - Cải tiến kỹ thuật là những
sáng kiến sửa đổi kỹ thuật hiện có mà làm tăng hiệu suất của máy móc và làm giảm
mức hư hỏng của sản phẩm. Có khi với những dụng cụ nguyên liệu thiếu thốn ở
trong nước mà có sáng kiến làm ra những thứ dụng cụ cần thiết cho sản xuất cũng
coi như là sáng kiến cải tiến kỹ thuật.
3. – Phát minh là những sáng chế
ra máy móc, dụng cụ sản xuất các loại kim khí, những sáng chế ra vật phẩm hóa học
từ trước tới nay chưa có, hoặc những phát minh về phương pháp sản xuất mới.
b) Thưởng sáng kiến cần chú ý:
1. – Thưởng những sáng kiến có
tác dụng làm lợi lâu dài cho sản xuất, làm tăng năng suất lao động, giảm giá
thành, tiết kiệm sức lao động, không hại đến máy móc.
2. – Tính giá trị sáng kiến sẽ
căn cứ vào kết quả đẩy mạnh tăng năng suất và kết quả tiết kiệm của một bộ phận
sản xuất hoặc của cả xí nghiệp.
3. – Những sáng kiến phát minh đều
phải thông qua Bộ sở quan xét duyệt.
c) Tổ chức Hội đồng kỹ thuật:
Mỗi đơn vị sản xuất tổ chức
một Hội đồng kỹ thuật để xét giá trị của từng sáng kiến trình lên Bộ sở quan
xét thưởng kịp thời.
d) Giá trị và thời gian tính thưởng:
Để tính được tiền thưởng sáng kiến
cần phải qua một thời gian áp dụng có kết quả. Thí dụ: 3 tháng đã áp dụng
sáng kiến sửa đổi lề lối làm việc, 6 tháng đã áp dụng sáng kiến cải tiến kỹ thuật
và sau một năm đã áp dụng sáng kiến phát minh thì xí nghiệp sẽ tính tổng số tiền
đã tiết kiệm được hay làm lợi cho xí nghiệp mà đề nghị lên Bộ sở quan trích ra
một số tiền để thưởng cho những người có sáng kiến phát minh.
Giá trị sáng kiến làm lợi cho xí
nghiệp sẽ căn cứ vào mức sản xuất trung bình trong thời gian trước khi có sáng
kiến để làm mục tiêu xác nhận giá trị của sáng kiến. Thí dụ: Sửa đổi lề
lối làm việc trong 3 tháng, cải tiến kỹ thuật trong 6 tháng và phát minh
trong 1 năm.
e) Phạm vi thi hành và trách nhiệm
của các cơ quan sử dụng công nhân:
1. – Thông tư này sẽ nghiên cứu
áp dụng ở các đơn vị sản xuất công nghiệp giao thông vận tải, các đơn vị sự
nghiệp, phi công nghiệp, và những nhân viên kỹ thuật làm công tác nghiên cứu kỹ
thuật khoa học có liên quan đến sản xuất.
2. – Đối với các công trường của
công trình xây dựng kiến thiết cơ bản việc thưởng tăng năng suất thì áp dụng chế
độ làm khoán trong Thông tư số 4, việc thưởng tiết kiệm và sáng kiến phát minh
thì áp dụng theo Thông tư này.
Các Bộ các ngành sử dụng công
nhân nghiên cứu đặc điểm và tính chất sản xuất của từng xí nghiệp để hướng dẫn
áp dụng các loại tiền thưởng thu thập ý kiến công nhân rút kinh nghiệm bổ sung
để xây dựng bản điều lệ chính thức sau này.
Các Bộ, các ngành cần xét nhanh
chóng những đề nghị của các xí nghiệp các đơn vị sản xuất thuộc ngành mình để
chuẩn y về các loại tiền thưởng cho kịp thời.
3. – Đặc biệt ngành nào, xí nghiệp
nào có quy định cách tính thưởng hoặc có quy định những chế độ thưởng khác nữa
cần báo cáo và thảo luận trước với Bộ Lao động.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|