THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
668-TTg
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 8 năm 1997
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP GIẢM NHẸ THIÊN TAI VÀ NHỮNG
CHƯƠNG TRÌNH CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC TỈNH VEN BIỂN MIỀN TRUNG
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Thuỷ sản, Công nghiệp, Giao thông vận tải, Ban Chỉ đạo phòng chống lụt
bão Trung ương và các kiến nghị trong Hội nghị "Phòng chống lụt bão, phát
triển kinh tế - xã hội các tỉnh ven biển miền Trung" tổ chức tại thành phố
Huế từ ngày 20-22 tháng 6 năm 1997,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hoá đến Bình Thuận cần đánh giá đúng tiềm
năng, lợi thế so sánh và những khó khăn của mình, từ đó có giải pháp khắc phục,
phòng tránh và thích nghi với thiên tai, tận dụng thời cơ, tổ chức chỉ đạo thực
hiện để khai thác cho được tiềm năng, lợi thế tự nhiên và con người nhằm từng
bước ổn định và phát triển cùng với các vùng trong cả nước, đi lên công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Lợi thế nổi bật của các tỉnh ven
biển miền Trung trong thời kỳ công nghiệp hoá là có địa hình và hệ sinh thái đa
dạng; điều kiện địa chất, thổ nhưỡng phù hợp cho việc phát triển nhiều ngành
công nghiệp; là điểm giao lưu giữa các vùng kinh tế trong nước; là đầu mối giao
thông với các nước trong khu vực; có hệ thống cảng biển, đường bộ, đường sắt,
sân bay đã và đang tiếp tục được xây dựng; có nguồn lao động đồi dào.
Bên cạnh những lợi thế đó, nhìn
chung các tỉnh ven biển miền Trung có điểm xuất phát thấp so với một số vùng
khác trong cả nước. Điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, lụt, bão, hạn
hán... xẩy ra thường xuyên, diễn biến phức tạp ảnh hưởng tới đời sống của nhân
dân, tới phát triển kinh tế - xã hội trong vùng.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của các tỉnh ven biển miền Trung từ nay đến năm 2000 là đạt cho được nhịp độ
tăng trưởng kinh tế (GDP) hàng năm từ 10-12%; chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế,
đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, đa dạng hoá các sản phẩm, bảo đảm môi trường sinh thái bền vững, xử lý
tốt các vấn đề xã hội trên cơ sở phát huy tối đa nguồn lực tại chỗ, thu hút và
sử dụng có hiệu quả nguồn lực ngoài vùng và nước ngoài.
Điều 2.
Phương hướng phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai là "Chủ động phòng
tránh, giảm nhẹ và thích nghi", bảo đảm an toàn cho đời sống của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước và của nhân dân; nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn
định đời sống, từng bước thích nghi với tiên tai để phát triển kinh tế.
Trên cơ sở tổng kết công tác
phòng chống lụt bão ở các tỉnh miền Trung, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương cần hướng dẫn và phối hợp chặt
chẽ với các tỉnh để:
- Có các qui định, hướng dẫn cụ
thể về các giải pháp trong những tình huống khác nhau nhằm ngăn chặn và hạn chế
đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra.
- Tiếp tục hoàn thiện các công
trình kết cấu hạ tầng hiện có và xây dựng các công trình mới sao cho các công
trình này tạo thành hệ thống góp phần ngăn chặn, giảm nhẹ thiệt hại do thiên
tai, đồng thời không bị thiên tai lặp đi lặp lại tàn phá gây lãng phí.
- Bố trí cơ cấu cây trồng, chuyển
đổi mùa vụ sản xuất để né tránh, thích nghi với bão lũ, lụt lội.
Điều 3.
Một số chương trình phát triển kinh tế chủ yếu, giảm nhẹ và hạn chế dần do
thiên tai gây ra.
1. Chương trình trồng rừng và bảo
vệ rừng:
Rừng ở các tỉnh ven biển miền
Trung nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển có vai trò quyết định ngăn
chặn và hạn chế tác hại của lụt bão, giữ nước, chống sói mòn sa mạc hoá đất
đai, bảo vệ đê biển, giảm nhẹ thiên tai và cân bằng môi trường sinh thái ổn định
để phát triển.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2000
phải đạt cho được độ che phủ của rừng và các cây công nghiệp là trên 40% bằng
cách phát triển 650.000 ha rừng mới gồm: khoanh nuôi phục hồi 200.000 ha rừng
hiện có, trồng mới trên đất trống đồi núi trọc 450.000 ha rừng và các cây công
nghiệp lâu năm có độ che phủ tốt. Đến năm 2010 độ che phủ của rừng và cây công
nghiệp lâu năm đạt 60-65%, nhằm nâng cao năng lực phòng hộ, cân bằng môi trường
sinh thái, góp phần hạn chế thiên tai.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh phải tổ
chức chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và thường xuyên kiểm điểm việc thực hiện Chỉ
thị số 286/TTg ngày 02 tháng 5 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường
các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có trách nhiệm cùng các Bộ ngành có liên quan, Uỷ ban nhân dân các tỉnh
sớm hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định lâu dài cho tổ chức cá nhân và
hộ gia đình theo Nghị định số 02/CP ngày 05 tháng 01 năm 1994 của Chính phủ và
theo đúng tinh thần Chỉ thị 286/TTg ngày 02 tháng 5 năm 1997 của Thủ tướng
Chính phủ. Từng tỉnh phải nắm chắc quỹ đất các loại và tình hình sử dụng đất
trên địa bàn để có quy hoạch, kế hoạch sử dụng và điều chỉnh hợp lý. Nhất thiết
phải đảm bảo các hộ nông dân có đủ đất để trồng cây ngắn ngày đáp ứng nhu cầu
lương thực, có đất để trồng cây ăn quả, làm kinh tế vườn, chăn nuôi gia súc.
Đây chính là điều kiện tiên quyết, là giải pháp cơ bản để đồng bào định cư, định
canh, không phá rừng để trồng cây lương thực mà tham gia bảo vệ, khoanh nuôi
tái sinh và trồng mới rừng trên diện tích đất và rừng được giao.
2. Chương trình chuyển đổi cơ cấu
và chuyển đổi mùa vụ sản xuất nông nghiệp.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông nghiệp phải theo hướng sản xuất hàng hoá có giá trị phục vụ nhu cầu trong
nước và xuất khẩu, phát huy cho được tiềm năng, lợi thế về đất đai, hệ sinh
thái, tập quán, kinh nghiệm sản xuất của từng địa phương để phát triển kinh tế
- xã hội của vùng.
Cần tập trung giải quyết thuỷ lợi
để tăng quỹ đất canh tác, chọn các giống có năng suất, chất lương; bố trí mua vụ
hợp lý, phấn đấu đến năm 2000 đạt sản lượng lương thực 4,2 - 4,5 triệu tấn,
cùng các vùng sản xuất lúa trọng điểm trong cả nước bảo đảm an toàn lương thực
quốc gia, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Bên cạnh cây lúa, cần có quy hoạch,
kế hoạch và chính sách giải pháp cụ thể huy động cho được mọi nguồn nhân lực để
phát triển cây công nghiệp có giá trị, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng;
- Cần gắn nhà máy chế biến đường
với phát triển vùng nguyên liệu, nhân nhanh các giống mía mới có năng suất và
hàm lượng đường cao, đảm bảo đến năm 2000 toàn vùng định hình trồng khoảng
100.000 ha mía và có đủ các cơ sở chế biến đường góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
- Có quy hoạch, kế hoạch phát
triển các cây cao su, cà phê, bông, tiêu, ca cao... ở những nơi có điều kiện;
cây nho, thanh long ở Bình Thuận, Ninh Thuận, gắn liền với việc xây dựng các cơ
sở chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho nông
dân yên tâm sản xuất lâu dài.
- Khai thác triệt để tiềm năng
và thế mạnh của vùng để phát triển chăn nuôi đàn gia súc, đặc biệt là bò, cứu,
dê. Giải quyết tốt về giống và phòng, chống các dịch bệnh gia súc, đặc biệt là
bệnh lở mồm, long móng. Sớm có quy hoạch đất đồng cỏ cho hộ gia đình hoặc cho
nông dân thuê để chăn nuôi bò theo quy mô trang trại.
Các tỉnh ven biển miền Trung có
lợi thế, tiềm năng lớn về đất đai, nước biển, thời tiết và lao động để sản xuất
muối đáp ứng đủ nhu cầu dân sinh, nhu cầu công nghiệp, tiến tới xuất khẩu. Tổng
cục Địa chính cùng Uỷ ban nhân dân các tỉnh cần đánh giá và quy hoạch vùng có
điều kiện đất đai để chuyển sang sản xuất muối công nghiệp có hiệu quả nhất.
Riêng hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, trong năm 1997 phải hoàn thành các thủ tục
khảo sát, xây dựng và phê duyệt dự án khả thi các đồng muối Phương Cựu, Quán Thẻ;
mở rộng đồng muối Cà Ná để khởi công xây dựng trong năm 1998. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính cân đối, bảo đảm vốn cho các dự án phát triển muối công nghiệp
này.
3. Xây dựng các công trình thuỷ
lợi và đê điều.
Việc xây dựng các công trình thuỷ
lợi và đề điều ở các tỉnh ven biển miền Trung có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc phòng tránh thiên tai, ngăn mặn, chống hạn, cung cấp nước cho sinh
hoạt và nước cho sản xuất nông nghiệp, nhất là đối với các vùng khó khăn, nhưng
phải phù hợp với địa hình, khí tượng thuỷ văn của vùng và phải được tổ chức làm
từng bước theo quy hoạch chung.
- Về đê điều:
+ Các đê sông ở các tỉnh ven biển
miền Trung phải bảo đảm phòng lũ chính vụ, lũ lớn và cho thu hoạch an toàn lúa
đông xuất và hè thu ở các tỉnh phía Nam ven biển miền Trung.
+ Phải quy định cao trình cần
thiết cho các tuyến đê biển để ngăn triều cường, hạn chế nước mặn vào đồng, có
kế hoạch phát triển trồng cây chắn sóng ở những vùng đê biển xung yếu.
+ Các tuyến đê ven đầm phá phải
chống đỡ được mức triều cao nhất trong vụ hè thu và có biện pháp gia cố mặt
mái, không để lũ tàn phá khi đê bị ngập.
+ Phải có chương trình nghiên cứu,
để ra biện pháp và có kế hoạch cụ thể để xử lý những đoạn sông, vùng cửa sông,
vùng bờ biển đang có diễn biến phức tạp (bồi, xói, không ổn định) gây ảnh hưởng
đến đời sống và sản xuất của nhân dân.
- Về hồ chứa nước và kênh mương:
+ Tiếp tục xây dựng mới hồ chứa
kể cả các hồ chứa ở thượng nguồn, nâng cấp và hoàn thiện các hồ chứa hiện có để
giảm lũ và giữ nước chống hạn, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân và cải
thiện môi trường sinh thái cho toàn vùng.
+ Từng bước kiên cố hoá hệ thống
kênh mương dẫn nước và các công trình đầu mối thuỷ lợi nhỏ, nhằm tiết kiện đất
đai, giảm tổn thất nước, phát huy hiệu quả những công trình đã được đầu tư.
+ Cần tổ chức nghiên cứu và có kế
hoạch thực hiện chương trình chỉnh trị dòng sông, cửa sông bảo vệ bờ sông, như
cửa Tư Hiền, Thuận An, (Thừa Thiên Huế), cửa Đại, cửa An Hoà (Quảng Nam), cửa
Đà Rằng, cửa Đà Nông (Phú Yên), cửa sông Cái (Ninh Thuận), cửa Phan Rí (Bình
Thuận); xử lý một số đoạn sông, cửa sông đang bị sạt lở; ngăn chặn lấn đất bãi
sông để làm nhà, xây dựng công trình làm ảnh hưởng đến việc thoát lũ các dòng
sông.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Uỷ ban nhân dân các tỉnh
xây dựng đề án cụ thể thực hiện các nội dung nêu trên, xác định các công trình
cấp bách đang xây dựng dở dang để tập trung đầu tư hoàn chỉnh ngay trong năm
1998. Trong quý IV năm 1997 phải xác định các công trình cần xây dựng mới trong
giai đoạn từ 1998-2000 và những công trình trọng điểm cần được khởi công xây dựng
sau năm 2000 trình Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở danh mục các dự án được duyệt,
các Bộ chức năng và Uỷ ban nhân dân các tỉnh lập dự án cụ thể, huy động các nguồn
vốn đầu tư từ Trung ương, địa phương và huy động nguồn tại chỗ của dân để thực
hiện.
4. Chương trình phát triển thuỷ
sản
Khai thác hải sản là nghề truyền
thống, tiền năng và thế mạnh của các tỉnh ven biển miền Trung, Bộ Thuỷ sản phối
hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân các tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện chương
trình này một cách bền vững để tăng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu.
- Phấn đấu đến năm 2000 đạt sản
lượng thuỷ sản 450.000-500.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 250 triệu
USD.
- Đẩy mạnh việc khai thác hải sản
gắn với đầu tư chiều sâu tăng cường năng lực đánh bắt - nhất là đánh bắt xa bờ,
nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở chế biến, xác định và tổ chức khai thác hiệu
quả các ngư trường mới.
- Cùng với khai thác hải sản, cần
tổ chức tốt việc nuôi trồng thuỷ sản (nước ngọt, nước lợ đặc biệt là ở các đầm
phá).
- Đẩy mạnh khâu chế biến để nâng
cao chất lượng, đa dạng hoá các mặt hàng thuỷ sản phục vụ tiêu dùng trong nước,
chú trọng các mặt hàng chế niến cao cấp cho xuất khẩu và phục vụ các trung tâm
đô thị lớn và các khu công nghiệp.
- Từng địa phương cần tổ chức
các đội tàu gồm các tàu có công suất lớn, có trang thiết bị phục vụ cứu nạn làm
nòng cốt cho các tàu thuyền có công suất vừa, nhỏ cùng ra khơi đánh bắt hải sản.
Có biện pháp đảm bảo tất cả các thuyền ra khơi đều có phao và các phương tiện
phòng hộ cần thiết. Trong mùa bão lụt phải làm tốt việc dự báo, cảnh báo bão,
áp thấp nhiệt đới, trang bị phao cứu sinh, phương tiện thông tin, bến bãi neo đậu
an toàn cho tầu thuyền và ngư dân và thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số 39/TTg
ngày 18 tháng 01 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ để bảo đản an toàn cho người
và phương tiện nghề cá hoạt động trên biển.
- Tổ chức lại đời sống nhân dân ở
các làng chài, trên các vùng đầm phá, vùng dân cư ven biển chuyên về đánh bắt hải
sản. Cần có kế hoạch, tạo điều kiện để tất cả các hộ ngư dân định cư trên bờ,
chấm dứt tình trạng "du cư" trên đầm, phá... và có kế hoạch đầu tư cải
tạo, xây dựng nâng cấp các cảng cá, dịch vụ nghề cá nhằm tạo điều kiện cho tầu
thuyền của ngư dân hoạt động đánh bắt và tiêu thụ sản phẩm.
5- Chương trình phát triển giao
thông
- Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu
xây dựng quy định tổng thể, chiến lược phát triển giao thông vận tải các tỉnh
ven biển miền Trung theo từng giai đoạn từ nay đến năm 2000, 2005 và những năm
tiếp theo, trong đó xác định các công trình trọng điểm chủ yếu và có các bước
đi cụ thể, cơ chế, chính sách đầu tư, huy động vốn, trách nhiệm của Trung ương,
địa phương đối với từng công trình theo từng giai đoạn trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt. Trên cơ sở đó lập các dự án đầu tư để triển khai dứt điểm từng công
trình, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, không đủ vốn, công trình dở dang kéo
dài, kém hiệu quả.
- Trước mặt, Bộ Giao thông vận tải
chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương
đánh giá hết ảnh hưởng của lụt bão đối với tuyến đường bộ, đường sắt và ngược lại
ảnh hưởng của các tuyền giao thông đến việc thoát lũ, chống úng. Cần mở thêm
các tuyền đường tránh ở các đoạn thường xuyên bị ngập làm ùn tắc giao thông,
các giải pháp gia cố mặt đường, mái đường để chống lũ tàn phá khi tràn qua, bảo
đảm an toàn cho các tuyến đường Đông Tây, đặc biệt là đường dân sinh, đường lên
miền núi, các tuyến đường dễ bị sạt trượt trong mùa mưa bão.
- Việc cải tạo, nâng cao cấp quốc
lộ 1A, đường sắt Bắc Nam phải có sự phối hợp chặt chẽ với ngành thuỷ lợi để có
giải pháp tối ưu bảo đảm tiêu thoát lũ, tiêu úng nhanh, không bị phá hoại, sạt
lở trong mùa mưa bão, bảo đảm giao thông suốt trong mọi tình huống.
- Ngoài các trục đường Bắc -
Nam, phải có quy hoạch và từng bước xây dựng các trục đường xương cá Đông Tây,
cảng hàng không và đường nối liền với các tỉnh Tây Nguyên, bảo đảm giao thông
thông suốt trong cả mùa khô và mùa mưa giữa các huyện trong vùng, miền núi và
ven biển (kể cả đường cho xe hai bánh, đường dân sinh...) để thục đẩy sản xuất,
giao lưu hàng hoá.
Điều 4.
Phát triển nông nghiệp, đô thị và du lịch
Các tỉnh ven biển miền Trung có
tiềm năng to lớn và lợi thể về hệ thống các cảng biển, đất đại, địa hình cho
phát triển công nghiệp, đô thị và du lịch.
- Về công nghiệp: Ngoài các
ngành công nghiệp hoá dầu, cơ khí sửa chữa và đóng tàu, vật liệu xây dựng, khai
thác khoảng sản, phải chú ý phát triển, đầu tư chiều sâu cho các ngành công
nghiệp chế biến nông sản, hải sản, muối công nghiệp, nước khoảng, rượu nho và
nước giải khát sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ; đồng thời nghiên cứu phát triển
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, sản xuất
hàng tiêu dùng; nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP tạo tiền đề cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc quy hoạch và xây dựng các cụm,
khu công nghiệp, vùng kinh tế phát triển phải gắn liền với việc từng bước nâng
cấp hệ thống các cảng biển, đường dây chuyền tải điện, đường vào các cảng và
các khu công nghiệp, phù hợp với quy hoạch chung toàn cùng nhằm hỗ trợ và thục
đẩy lẫn nhau. Cần sớm có quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp
như Dung Quất (Quảng Ngãi), Liên Chiểu, Hoà Khánh (Đà Nẵng), Chu Lai, Tam Kỳ,
Tràng Nhật (Quảng Nam), Suối Dầu, Suối Hiệp, Hòn Rớ (Khánh Hoà), Tháp Chàm
(Ninh Thuận), Chân Mây (Thừa Thiên - Huế), Vũng áng (Hà Tĩnh), Nghi Sơn, Lam
Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò, Hoàng Mai, Nghĩa Đàn (Nghệ An)... nhằm thu hút vốn đầu
tư và công nghệ nước ngoài. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức và cá nhân trong nước tham gia đầu tư và phát triển các khu công nghiệp
đã được xác định, từ đó hình thành các trung tâm kinh tế và các đô thị mới của
địa phương, thúc đẩy các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp truyền thống, dịch
vụ, thương mại phát triển.
Ngoài việc quy hoạch phát triển
cụm công nghiệp, khu công nghiệp cần khuyến khích phát triển các cơ sở công
nghiệp - nhất là công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản với qui mô thích hợp ở
những địa điểm gần vùng nguyên liệu, có nhiều lao động và phát triển các ngành
nghề truyền thống.
- Về phát triển đô thị: Phải sớm
quy hoạch lại các đô thị hiện có, nhất là các thành phố, thị xã tỉnh lỵ của các
tỉnh; chú ý gìn giữ, tôn tạo những khu di tích và phố cổ; xây dựng các khu dân
cư tập trung gắn với các khu công nghiệp như những đô thị vệ tinh của các thành
phố, thị xã hiện nay. Từng bước hình thành một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm các
thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, các trung tâm xã, liên xã, các cụm dân
cư... rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Việc xây dựng đô thị mới và mở rộng
đô thị hiện có phải bảo đảm đúng quy định, quy hoạch đã được phê duyệt. Nhất
thiết phải có diện tích cây xanh, khu vui chơi giải trí, không làm phá vỡ cảnh
quan và ô nhiễm môi trường. Ưu tiên sử dụng diện tích được giải toàn trong các
thành phố, thị xã để trồng cây xanh, làm các khu vui chơi công cộng.
- Về du lịch: Cần tập trung xây
dựng quy hoạch phát triển du lịch cho cả khu vực duyên hải miền Trung và cho từng
tỉnh. Gắn liền việc khai thác các di sản văn hoá dân tộc trong vùng phục vụ du
lịch với việc duy tu, tôn tạo các di sản này. Chú ý phát triển du lịch ven biển,
du lịch sinh thái, đặc biệt là du lịch đầm phá - một thế mạnh đặc thù của miền
Trung. Ngoài việc phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch như khách sạn, bãi
tắm, khu vui chơi... cần chú ý phát triển hệ thống dịch vụ để kéo dài ngày ở của
khách du lịch và tăng thu từ du lịch cho các ngành sản xuất khác. Có quy định cụ
thể và tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường và giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Điều 5.
Phân bố lại lao động dân cư, định canh, định cư, xoá đói giản nghèo.
Xoá đói, giảm nghèo phải gắn liền
với định canh, định cư, phân bổ lại lao động, dân cư trong phạm vi của từng tỉnh
để khai thác tốt tiềm năng tự nhiên. Đây là vấn đề quan trọng, phải được coi là
một nhiệm vụ thường xuyên của các tỉnh ven biển miền Trung. Cần bố trí đủ đất
đai để ổn định cho được sản xuất, đời sống của đồng bào, nhất là đồng bào các
dân tộc ít người ở vùng cao, vùng căn cứ kháng chiến cũ.
Riêng hai tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận đất rộng, dân cư còn ít, nếu được đầu tư làm các công trình thuỷ lợi
thì có thể mở rộng diện tích canh tác, tiếp nhận thêm lao động để khai thác tiềm
năng đất đai. Vì vậy, cần có kế hoạch làm thuỷ lợi, xây dựng hạ tầng cơ sở để một
mặt bố trí hợp lý dân cư trong tỉnh (kể cả số dân đã đến từ tỉnh khác), mặt
khác chuẩn bị điều kiện để có thể tiếp nhận thêm lao động từ các tỉnh khác đến
theo kế hoạch.
Từng tỉnh cần có thời gian cụ thể
xoá hết hộ đói. Cần nắm chắc và cập nhật tình hình, nguyên nhân dẫn tới thiếu
đói của từng hộ gia đình trong từng xã, từng huyện và phải có kế hoạch giải quyết
dứt điểm từng hộ, từng loại đối tượng theo một lịch trình thời gian cụ thể. Thường
xuyên kiểm điểm tình hình thực hiện và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đảm bảo
chậm nhất là tới năm 2000 không còn hộ đói.
Cần phân loại các hộ gia đình
nghèo, xác định nguyên nhân nghèo để có biện pháp hỗ trợ có hiệu quả. Đối với
những hộ nghèo do thiếu đất, thiếu phương tiện sản xuất và vốn, thì cần đảm bảo
đủ đất, cho vay đủ vốn bằng tín chấp để bà con có điều kiện ổn định được sản xuất
tự ra khỏi cái nghèo. Cần giải quyết tập trung, dứt điểm từng hộ, từng địa
phương, không dàn đều, bình quân. Chú trọng công tác khuyến nông, chuyển giao
tiến bộ khoa học công nghệ, áp dụng kỹ thuật canh tác mới. Tổ chức tốt việc phổ
biến kinh nghiệm sản xuất của những hộ làm ăn khá, giỏi để đông đảo đồng bào
tham khảo, vận dụng. Cử cán bộ giúp đỡ, hướng dẫn cụ thể những hộ gia đình
nghèo đói do thiếu kinh nghiệp sản xuất. Thực hiện tốt phương thức giáo dục cộng
đồng với những đối tượng nghèo, đói do lười biếng.
Đối với những hộ nghèo ở đô thị,
cần nắm chắc tình trạng, nguyên nhân nghèo của từng hộ để có biện pháp tạo công
ăn việc làm, hỗ trợ vốn và tạo các điều kiện phù hợp với từng đối tượng. Đối với
những hộ nghèo thuộc khu vực giải toả, tái định cư cần có chính sách ưu tiên
cho họ nhận đất, nhà ở có điều kiện thuận lợi, thích hợp với ngành nghề của từng
đối tượng.
Đối với hộ ngư dân nghèo, ngoài
việc giải quyết định cư trên bờ, có đất ở, đất vườn như đối với các hộ nông
dân, cần có chính sách tín dụng phù hợp để tạo điều kiện cho từng hồ ngư dân
nghèo tự vay hoặc tham gia cùng một số hộ ngư dân khác vay được vốn để đóng
tàu, thuyền, mua sắm ngư cụ đánh cá xa bờ và được giãn nợ nếu chưa có khả năng
trả do thiên tai gây ra "mất mùa" đánh bắt.
Tổng cục Địa chính chỉ đạo Uỷ
ban nhân dân các tỉnh thống kê, nắm lại toàn bộ quỹ đất của địa phương cụ thể đến
từng xã, huyện đặc biệt là diện tích đất có khả năng trồng cây lương thực, cây
ăn quả, cây công nghiệp có giá trị cao và thực trạng sử dụng đất để có kế hoạch
khai phá, sử dụng tiết kiện và hợp lý.
Điều 6.
Về y tế, giáo dục, văn hoá - xã hội.
- Về y tế: Cung cấp đủ muối i-ốt
cho dân, nhất là vùng cao, giảm tỷ lệ bướu cổ xuống dưới 10%, cơ bản thanh toán
bệnh bại liệt ở trẻ em, ngăn chặn, tiến tới thanh toán bệnh phong ở vùng Nam Trung
Bộ, xoá xã trắng về cơ sở dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho dân, giảm tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên xuống dưới 2% vào năm 2000.
Đầu tư nâng cấp các bệnh viện đa
khoa tuyến tỉnh, huyện đủ sức khám, chữa bệnh cho dân, củng cố các trạm vệ sinh
phòng dịch ở tỉnh, khu vực và huyện, chú trọng kiện toàn mạng lưới y tế nông
thôn, đặc biệt là vùng cao, vùng sâu để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho dân.
Đối với các cơ sở y tế của Trung
ương hiện có ở Đà Nẵng, Huế, Đồng Hới v.v... Bộ Y tế cần có kế hoạch đầu tư,
nâng cấp cả về quy mô và trang thiết bị tiên tiến, đủ năng lực giải quyết công
tác chữa bệnh ở tuyến khu vực, tiến tới hình thành các trung tâm y tế vùng, khu
vực vào năm 2000.
- Về giáo dục: Đẩy mạnh công tác
xoá mù chữ và phổ cấp giáo dục tiểu học và phát triển trung học cơ sở. Khuyến
khích xây dựng các trường lớp theo phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng
làm" và xã hội hoá giáo dục. Đổi mới những nơi chưa có điều kiện xây dựng
kiên cố thì tận dụng nguyên liệu tại chỗ để xây dựng nhưng phải khang trang, gọn
dẹp, ấm về mùa đông, mát về mùa hè và nhất thiết các trường phải có sân chơi
cho học sinh, trồng cây xanh tạo đẹp môi trường học đường. Mở rộng mô hình các
trường dân tộc nội trú để đào tạo cán bộ từ con em đồng bào dân tộc đáp ứng nhu
cầu phục vụ trước mắt và lâu dài ở địa phương; đổi mới nội dung đào tạo gắn việc
học văn hoá với dạy nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội miền núi.
Cần có kế hoạch khẩn trương xây
dựng các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu nhân lực
cho vùng, nhất là cho các khu công nghiệp tập trung, các cụm và cơ sở công nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với tỉnh Thừa Thiên - Huế, Thành phố Đà Nẵng chỉ đạo các Trường Đại học Huế, Đại
học Đà Nẵng đảm bảo vai trò là trung tâm đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật cho cả
vùng.
- Về văn hoá - xã hội, thể thao:
Tập trung bảo vệ, giữ gìn và từng bước tôn tạo các di tích lịch sử, cách mạng,
danh lam thắng cảnh như: Xô viết Nghệ Tĩnh, Lam Sơn, Thành cổ Quảng Trị, Cố đô
Huế, phố cổ Hội an, di tích Chàm v.v... và các di tích kháng chiến. Tăng cường
các trường văn hoá nghệ thuật tổng hợp, đào tạo kịp thời nguồn nhân lực cho các
loại hình văn hoá, nghệ thuật nhằm giữ gìn, bảo tồn các giá trị truyền thống,
phát triển văn hoá hiện đại kết hợp với bản sắc dân tộc.
Phấn đầu đến năm 2000; bảo đảm
80-95% vùng dân cư nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam. Trung ương đầu tư máy phát
sóng trung AM và các trạm phát sóng FM tại một số điểm trung tâm. Tại Quảng
Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Hải Vân, Vũng Chùa. Các tỉnh đầu tư hoàn thành các đài
phát sóng tại địa phương.
Tiếp tục triển khai chương trình
chuyển tiếp sóng truyền hình Quốc gia bảo đảm cho 80-90% vùng dân cư được xem
trên truyền hình Việt Nam.
Thông qua chương trình quốc gia
về thể thao, từng bước hình thành 3 Trung tâm thể thao lớn ở Nghệ An, Đà Nẵng,
Khánh Hoà để thúc đẩy phong trào thể thao toàn vùng. Các tỉnh sẽ đầu tư dần từng
bước để hình thành các Trung tâm thể thao của tỉnh, trước hết là 3 công trình
cơ bản là: sân vận động, nhà thi đấu thể thao tổng hợp, bể bơi.
Điều 7.
Tổ chức thực hiện.
- Các nội dung trong Quyết định
này là nhiệm vụ chủ yếu của các cấp chính quyền địa phương, phải được cụ thể
hoá thành các chương trình, kế hoạch hàng năm của từng ngành chuyên môn, từng cấp
chính quyền tỉnh, huyện, xã và được tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện dưới sự
lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, các Bộ, ngành ở Trung ương căn cứ vào chức năng và quyền hạn của
mình phối hợp chặt chẽ với các tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện các nội dung thuộc
phạm vị chỉ đạo của ngành, địa phương mình được nêu trong Quyết định này.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp
các chương trình, dự án của các Bộ, ngành và các tỉnh duyện hải miền Trung, cân
đối, bố trí kế hoạch đầu tư hàng năm, với các giải pháp, cơ chế, chính sách cụ
thể để thực hiện Quyết định này. Trên cơ sở các chương trình dự án được phê duyệt,
có kế hoạch cụ thể hàng năm, bắt đầu tư năm 1998.
Điều 8.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các tỉnh ven biển miền Trung chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này.