Thứ 7, Ngày 16/11/2024

Quyết định 508/QĐ-UBND năm 2023 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Số hiệu 508/QĐ-UBND
Ngày ban hành 10/05/2023
Ngày có hiệu lực 10/05/2023
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Cao Bằng
Người ký Trịnh Trường Huy
Lĩnh vực Xây dựng - Đô thị,Giao thông - Vận tải

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH CAO BẰNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 508/QĐ-UBND

Cao Bằng, ngày 10 tháng 5 năm 2023

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;

Căn cứ Quyết định số 21/2022/QĐ-UBND ngày 15/7/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng Ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Theo đề nghị của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

 

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH




Trịnh Trường Huy

 

NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG

(Kèm theo Quyết định số 508/QĐ-UBND ngày 10 tháng 5 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng)

A. Lựa chọn địa danh, danh nhân vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

1. Tên địa danh nổi tiếng, có ý nghĩa và có giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa của đất nước hoặc địa phương; địa danh đã quen dùng từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân; tên địa phương kết nghĩa hoặc có mối quan hệ đặc biệt.

2. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu về chính trị, văn hóa, xã hội.

3. Tên di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương và đã được xếp hạng theo quy định của Luật Di sản văn hóa.

4. Tên phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương.

5. Tên danh nhân bao gồm cả danh nhân nước ngoài. Danh nhân đó phải là người nổi tiếng, có đức, có tài, có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như của địa phương hoặc có đóng góp đặc biệt cho đất nước, có công lớn trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc, được Nhân dân suy tôn và thừa nhận.

6. Ngoài lựa chọn các tên đã có trong danh mục Ngân hàng tên, có thể lựa chọn tên các huyện, xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã được cấp có thẩm quyền quyết định thành lập để xem xét đặt tên đường, phố và công trình công cộng.

Những nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì chưa xem xét đặt tên cho đường, phố và công trình công cộng.

B. Danh mục tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng: 259 tên

I. Tên địa danh nổi tiếng, có ý nghĩa và giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa; địa danh đã quen dùng từ xa xưa, tên địa phương kết nghĩa hoặc có quan hệ đặc biệt: 77 tên

TT

Tên

Địa bàn

Tóm tắt nội dung, sự kiện, địa danh, nhân vật

(1)

Thành phố Cao Bằng

 

1

Bản Phủ

Xã Hưng Đạo

Bản Phủ là tên gọi dân gian về tòa thành cổ gắn với truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (Chín chúa tranh vua) từ thời Thục Phán, thủ lĩnh người Tày Cổ (Tây Âu, tương truyền là con Thục Chế - vua nước Nam Cương, cùng thời với nước Văn Lang). Những dấu tích về tòa thành đến nay là tường thành, Bó Phủ (giếng Ngọc), hồ Sen...

2

Cao Tiên

Phường Hợp Giang

Đền Cao Tiên thờ công chúa thứ hai của Vua Mạc Kính Vũ là Mạc Thị Cao Tiên. Sau khi nhà Mạc bị nhà Lê đánh bại, để giữ khí tiết và lòng trung thành với nhà Mạc, khi bị quân nhà Lê truy đuổi hoàng hậu và hai công chúa của nhà Mạc đã trẫm mình xuống sông, xác của công chúa thứ 2 đã trôi theo dòng sông Mãng, Nhân dân thương xót đã đem chôn cất và lập miếu thờ.

(Nguồn: Nguyễn Xuân Toàn, Vương Triều Mạc ở Cao Bằng một thời hưng thịnh. Nxb Dân Trí, năm 2011)

3

Cao Bình

Xã Hưng Đạo

Là tên gọi quen thuộc của khu vực xã Vu Tuyền, châu Thạch lâm, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Năm 1435, địa danh Cao Bằng (Cao Bình), lần đầu tiên xuất hiện trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Theo Nguyễn Trãi, hồi bấy giờ Cao Bằng đã ở hàng cấp lộ. Trong Quốc sử quán triều Nguyễn, khi chép về diên cách Cao Bằng ghi rõ: "Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Định, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ... đời Lý về sau là đất Thái Nguyên. Đời Lê năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) thuộc Bắc đạo, năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt thừa tuyên Thái Nguyên gọi là phủ Bắc Bình, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đổi làm Ninh Sóc thừa tuyên; đời Hồng Đức (1470- 1497) lại đổi làm Thái Nguyên thừa tuyên, gọi là phủ Cao Bình gồm 4 châu là: Thái Nguyên, Lộng Nguyên Thượng, Lang, Hạ Lang...

Đến đầu thế kỷ XVI, triều Lê suy yếu. Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất triều Lê, lập nên triều Mạc. Năm 1592 nhà Mạc bị đánh bật khỏi Thăng Long và chạy lên Cao Bằng cố thủ. Năm 1594, Mạc Kính Cung tự xưng Vua là Càn Thống Hoàng Đế, đặt Vương phủ ở Cao Bình.

Dưới thời Tây Sơn, năm 1789, để tránh tên húy của vua Quang Trung là Nguyễn Quang Bình, các vùng đất có tên là Bình đều phải đổi tên, trấn Cao Bình đổi thành Cao Bằng. Vào đầu triều Nguyễn đặt lại tên cũ là Cao Bình, nhưng do thói quen kiêng kỵ nên sử sách và dân gian cho đến nay vẫn gọi là Cao Bằng.

(Nguồn: Tổng tập Dư địa chí Việt Nam, Nxb Thanh niên, năm 2012; Nguyễn Xuân Toàn, Vương Triều Mạc ở Cao Bằng một thời hưng thịnh. Nxb Dân Trí, năm 2011)

4

Đà Quận

Xã Hưng Đạo

Tên gọi quen thuộc của làng Đà Quận thuộc châu Thạch Lâm xưa, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Địa danh này đã có từ lâu đời, trong minh chuông chùa Đà Quận (tên chữ: Viên Minh tự) có đoạn: Trời mở Nam Việt/đất lập Cao Bằng/ Ở giữa Bản Phủ/ đất vững thành vua/Thạch châu kiên cố/ Đà Quận đất thiêng...

(Nguồn: Hồ sơ bảo vật quốc gia, Bảo tàng tỉnh Cao Bằng, 2017)

5

Đồi Mát

Phường Tân Giang

Đồi Mát là tên gọi cũ khu dân cư thuộc Nà Phía trước kia (nay thuộc tổ dân phố số 15 của phường Tân Giang).

6

Đồng Tâm

Phường Sông Hiến

Đồng Tâm là tên gọi khu dân cư thuộc phường Sông Hiến, tiếp giáp với khu dân cư Bản Mới của xã Đề Thám trước kia; một khu dân cư văn hóa có truyền thống đoàn kết, gắn bó, anh em hàng xóm luôn đùm bọc lẫn nhau.

7

Đức Chính

Xã Vĩnh Quang

Đức Chính là tên gọi khu dân cư thuộc khu vực xóm 1 hiện nay; đây là địa danh truyền thống về địa chỉ chăn nuôi lợn giống của Thành phố và Tỉnh. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị - Xóm dân cư số 1 sẽ trở thành xóm điểm nông thôn mới với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy phát triển nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái bền vững

8

Gia Cung

Phường Ngọc Xuân

Gia Cung là tên gọi quen thuộc của người dân thị xã Cao Bằng (làng Gia Cung) - khu dân cư bên bờ sông Bằng trải khá dài từ đầu cầu Gia Cung lên đến cầu Nà Cáp.

Trong giai đoạn 1933-1936: Gia Cung là nơi xây dựng cơ sở cách mạng, chỉ đạo các hoạt động cách mạng; là trạm đón tiếp và cất giấu tài liệu (hòm thư bí mật đặt dưới gốc cây đầu làng và thường xuyên liên lạc với xứ ủy Bắc Kỳ); Nơi thành lập chi bộ Gia Cung (1932)

9

Khuổi Ngùa

Xã Chu Trinh

Tên gọi hai xóm dân cư thuộc xã Chu Trinh; nơi có tuyến đường liên xóm kết nối các xóm dân cư số 3, số 4 và số 5. (“Khuổi Ngùa” tiếng Tày nghĩa là “suối tép”; “Nà Dìa” là “ruộng chia/ruộng để dành”do ông cha để lại).

10

Khau Cuốn

Phường Sông Hiến

Khau Cuốn là tên gọi khu vực dân cư này; còn có tên Kho Cuốn gắn với Kho lương thực thời kháng chiến của Nhân dân thị xã Cao Bằng.

11

Khau Roọc

Phường Đề Thám

Xóm dân cư Khau Roọc, phường Đề thám, nơi có di tích lịch sử Miếu Khau Roọc (Tiếng Tày, Nùng nghĩa là “Khe núi”): Nơi Hồ Chủ Tịch nói chuyện với cán bộ, lãnh đạo tỉnh Cao Bằng về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (2/1951).

Năm 2001, Miếu Khau Roọc được xếp hạng là di tích cấp tỉnh.

12

Khau Thúa

Phường Ngọc Xuân

Khau Thúa là tên gọi khu dân cư liền kề khu vực Trụ sở Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng; nơi có trường học (Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Ngọc Xuân) cùng với số cơ quan thuộc Sở Nông nghiệp, Chi Cục kiểm lâm tỉnh trước kia.

13

Mỏ Muối

Phường Tân Giang

Mỏ Muối là tên gọi dân gian quen thuộc với người dân khu vực này; tính từ ngã ba đền Ngọc Thanh đến dốc lên ngã tư Công an Tỉnh thuộc tổ dân phố số 8 và tổ 9 phường Tân Giang.

14

Nà Cạn

Phường Sông Bằng

Nà Cạn là tên gọi dân gian quen thuộc của Nhân dân thị xã Cao Bằng đối với toàn bộ khu vực sân bay trước kia, trải dài từ chân cầu Bằng Giang đến chân cầu Hoàng Ngà. (“Nà Cạn” tiếng Tày, Nùng nghĩa là “ruộng khô”).

15

Nà Cáp

Phường Sông Hiến,

Tên gọi dân gian quen thuộc khu dân cư thuộc phường Sông Hiến.

16

Nà Hoàng

Phường Hòa Chung

Tên gọi khu dân cư bên bờ sông Hiến thuộc phường Hòa Chung; kết nối từ đường liên tổ dân phố sang đường tránh quốc lộ 3 - 4.

17

Nà Lủng

Phường Duyệt Trung

Nà Lủng là địa danh khu mỏ sắt trước đây; sau khi khai thác xong, đã hoàn thổ, giao lại cho Nhân dân canh tác. (Nà Lủng tiếng Tày, Nùng nghĩa là ruộng trong thung lũng).

18

Nà Thỏ

Phường Duyệt Trung

Nà Thỏ là tên gọi khu dân cư bên đường Quốc lộ 4 (Đường Đông Khê), gần đến khu vực Nhà máy xi măng Cao Bằng; đây là khu đất tái định cư.

19

Nước Giáp

Phường Duyệt Trung

Tên gọi khu dân cư thuộc ngã ba sông, nơi hợp lưu sông Hiến và sông Bằng, từ cầu treo bắc qua phường Ngọc Xuân đến bờ sông Hiến; nơi có Sân vận động tỉnh - di tích lịch sử cách mạng (Tại đây, ngày 21/02/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nhân dân các dân tộc Cao Bằng).

20

Pháo đài

Phường Tân Giang

Pháo đài quân sự được Quân đội viễn chinh Pháp xây dựng. Năm 1950, ngay sau khi Cao Bằng giải phóng (03/10), Bác Hồ cùng với chỉ huy Mặt trận và lãnh đạo tỉnh quan sát toàn cảnh thị xã Cao Bằng, trực tiếp chỉ đạo công tác tiếp quản, đảm bảo an ninh - trật tự (Pháo đài quân sự tỉnh trực thuộc Bộ Chỉ quân sự tỉnh Cao Bằng quản lý, được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh).

21

Phố Thầu

Phường Hợp Giang

Tên gọi tuyến phố bên bờ sông Bằng, khu dân cư sầm uất bậc nhất Trấn Cao Bằng xưa và thành phố hôm nay; Trung tâm Thương mại - Dịch vụ đô thị hiện tại và tương lai của Thành phố.

22

Sloóc Nàm

Xã Hưng Đạo

Sloóc Nàm là tên gọi cây cầu treo bắc qua dòng sông Mãng kết nối khu dân cư Nam Phong với xóm Đà Quận trên địa bàn xã Hưng Đạo; đây là tên gọi dân gian quen thuộc.

23

Sông Mãng

Phường Đề Thám

Sông Mãng, một tên gọi xưa của sông Bằng Giang, đây là cách gọi dân gian quen thuộc của người dân về khúc sông Bằng chảy từ xã Hoàng Tung (huyện Hòa An) qua xã Hưng Đạo đến phường Đề Thám (Thành phố Cao Bằng).

24

Suối Củn

Phường Sông Bằng

Tên gọi dân gian quen thuộc về dòng suối (xưa gọi là Sông Củn hoặc sông Cổn), bắt nguồn từ địa phận xã Ngũ Lão, huyện Hòa An (tương truyền có mạch ngầm từ Hồ Thăng Hen, thuộc Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh), một trong những hợp lưu của sông Bằng.

25

Tam Giang

Thành phố Cao Bằng

Theo sách Đại Nam nhất thống chí, địa thế Cao Bằng có ghi: “Phía Bắc có sông Mãng, phía Đông có sông Hiến, phía Tây có sông Củn, tục gọi là tam giang, ba mặt lượn quanh ôm lại, như hình đai bạc”.

(Nguồn: Đại Nam nhất thống chí, tập IV. Nxb KHXH, Hà Nội, năm 1971)

26

Tam Trung

Phường Sông Bằng

Tam Trung là tên gọi trước đây của khu dân cư phường Sông Bằng.

Theo Cao Bằng thực lục: Năm Minh Mệnh thứ 14, thổ ty Bế Văn Cận (người Bái Khê) theo Nông Văn Vân ở Châu Bảo Lạc kết đảng bao vây tỉnh thành. Bố chánh Bùi Tăng Huy, án sát sứ Phạm Đình Trạc làm kế ứng phó, Lãnh binh là Phạm Văn Lưu dựa vào thế hiểm yếu lùi giữ kho thành, lương cạn, lực kiệt, tiếp tế của triều đình không đến kịp nên đã bị Nông Văn Vân chiếm thành. Khi thành bị phá, ba vị quan coi giữ thành đã tự vẫn để giữ khí tiết, tỏ lòng trung thành với vua Minh Mệnh. Sau này nhà Nguyễn cho xây dựng đền thờ ba vị trung thần ở Cao Bằng, gọi là Tam Trung từ (đền Tam Trung).

Nguồn: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, soạn thảo (1272-1697), Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985-1992).

27

Tân An

Phường Hòa Chung

Tên gọi khu dân cư bắt đầu từ ngã tư Công an tỉnh đến cột mốc số 0 Tỉnh lộ 209; nơi có Đoàn địa chất 105 xưa của tỉnh Cao Bằng.

28

Thanh Sơn

Phường Sông Hiến

Thanh Sơn tên gọi của khu dân cư xưa bên bờ sông Hiến; nơi có đơn vị nghĩa trang liệt sĩ thị xã Cao Bằng (nay là thành phố), trường học và Trụ sở của Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy thuộc Công an Tỉnh.

29

Vườn Cam

Phường Hợp Giang

Phố Vườn Cam là một trong những tuyến phố sầm uất của Cao Bằng xưa và thành phố Cao Bằng ngày nay. Trước đây, trong giai đoạn 1930, phố Vườn Cam là trạm liên lạc giữa Trung ủy với Xứ ủy và Trung ương.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thị xã Cao Bằng Tập 1 (1930-1975), năm 1995)

(2)

Bảo Lạc

 

1

Khau Cốc Chà

Xã Xuân Trường

Đèo Khau Cốc Chà (dốc 15 tầng) - con đèo nằm trên địa phận xã Xuân Trường (Bảo Lạc), cách thị trấn Bảo Lạc 18 km theo Quốc lộ 4A. Đây là một trong những cung đường đèo quanh co, khúc khuỷu nhất khu vực Đông Bắc Bộ. Con đèo dài 2,5 km, gồm 15 tầng dốc quanh co với những khúc cua gấp, hạ độ cao nhanh, hai bên là núi cao trùng điệp. Khau Cốc Chà gần đây trở thành điểm hấp dẫn những du khách yêu thích du lịch mạo hiểm.

Con đường đèo 15 tầng như dải lụa khổng lồ uốn quanh vách núi, Cao hơn nữa là những dải mây trắng bồng bềnh sáng lấp lánh giữa trời xanh. Cảnh tượng nơi đây vừa hùng vĩ mà lại hoang sơ, hứa hẹn sẽ là điểm đến hấp dẫn trong tương lai.

(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)

2

Phja Dạ

Xã Sơn Lập

Phja Dạ (Sơn Lập): Núi Phja Dạ hùng vỹ có độ cao 1.976,7m so với mực nước biển, thuộc xã Sơn Lập (Bảo Lạc). Quanh năm mây mù bao phủ, mùa đông mây trắng như những dải lụa mềm từng lớp chồng xếp bao phủ núi. Mùa hạ mưa nhiều, đỉnh núi như thác nước khổng lồ từ trên trời tuôn xuống. Mùa thu ít mây, nắng chiếu tỏa sảng lên ngọn núi Phja Dạ như tháp lửa khổng lồ vút lên trời. Dưới chân núi Phja Dạ là đầu nguồn sông Năng, nơi đồng bào Mông, Dao sinh sống, canh tác ruộng bậc thang trên đá tạo nên những dải lụa vàng uốn lượn trên lưng núi.

(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)

3

Sông Gâm

Thị trấn Bảo Lạc

Sông Gâm là dòng sông lớn nhất huyện Bảo Lạc, bắt nguồn từ vùng núi cao gần 2.000 m thuộc địa phận Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc). Lòng sông Gâm rộng và sâu, độ dốc lớn, tốc độ dòng chảy và lưu lượng nước lớn. Chính hệ thống sông, suối nhiều nên Bảo Lạc có giá trị tiềm năng về thủy điện, thủy lợi. Sông Gâm có nhiều loài cá ngon và quý hiếm mà nhân dân thường gọi “ngũ quý hà thủy”, gồm: cá anh vũ (cá mõm lợn), cá lăng, cá bống, cá dầm xanh; đặc biệt là cá chiên - loài cá nằm trong Sách đỏ. Theo các cụ cao niên kể lại, cá chiên là loài hung dữ, thường sống ở vùng nước chảy xiết, đằm mình trong những hang ngầm dưới đáy các khúc sông lớn.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc 1930-2005. Nxb Lao động, năm 2010)

4

Sông Neo

Thị trấn Bảo Lạc

Sông Neo bắt nguồn từ vùng núi Phja Oắc chảy theo hướng Đông Bắc qua xã Đình Phùng, xã Huy Giáp, chảy xuống Nà Tồng - xã Hưng Đạo về xã Hồng Trị rồi đổ vào sông Gâm tại Thị trấn huyện Bảo Lạc. Lòng sông Neo rộng trung bình 30 mét, độ sâu trung bình 1,5 mét, lưu lượng nước và dòng chảy không ổn định.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc 1930-2005. Nxb Lao động, năm 2010)

(3)

Hạ Lang

 

1

Bá Co Ró

Xã Đồng Loan

Đèo Bá Co Ró: Là một điểm cao trên đường 207, ranh giới giữa Bản Xà và Khau Rạ (xã Đồng Loan), cách Bản Xà 2km. Thời kỳ Việt Minh, đây là một chốt gác quan trọng bảo vệ các cơ sở Việt Minh trên địa bàn xã, bảo vệ tầm xa “căn cứ” Việt minh ở Bản Bắng.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

2

Khau Ruông

Xã Quang Long, xã Việt Chu

Đèo Khau Ruông: Những năm 1930-1945 là con đường mòn, thoai thoải lên dốc, từ xóm Nà Mần đến đỉnh đèo Khau Ruông, xuống dần gặp xóm Bản Khau, là ranh giới giữa xã Quang Long và xã Việt Chu. Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị, cán bộ ta thường luồn sâu dưới những lùm cây xanh um tùm, rậm rạp, qua lại hoạt động cách mạng. Đèo Khau Ruông cũng là nơi kẻ địch thường phục kích để giết hại cán bộ cách mạng. Trong chuyến đi công tác của ông Nông Thạch Lâm, cán bộ chỉ huy quân sự huyện Hạ Lang và các ông Nông Văn Điềm (tức Lý Quốc), Lục Văn Lá (tức Lục Sỹ Hòa) xóm Bó Mực xã Quang Long, Lâm Điền Hinh, xóm Lũng Luông, địch đã phục kích chặn đường, bắn chết ông Lục Sỹ Hòa. Cũng tại Khau Ruông, địch phục kích bắn chết ông Nông Văn Điềm (tức Lý Quốc). Sau hòa bình lập lại năm 1954, Nhân dân và nhà nước mới mở rộng con đường này, đi lại được dễ dàng hơn.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

3

Kéo Nộc

Xã Đức Quang

Đèo Kéo Nộc thuộc xã Đức Quang, huyện Hạ Lang. Từ xưa, Nhân dân Đức Quang đã xây lấp cửa này bằng một bức tường đá hộc vững chắc, chỉ để cửa đủ cho người và gia súc qua lại và đặt ở đây một trạm gác để ngăn chặn bọn phỉ đến cướp bóc

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

4

Phja Vẹn

Xã Thái Đức

Hang Phja Vẹn, thuộc làng Bản Đâu, xã Thái Đức, huyện Hạ Lang là nơi tổ chức học võ, luyện tập quân sự cho các thanh niên bảo vệ xóm làng. Nơi đây đã từng đón các cán bộ cách mạng về hoạt động trong xã nhà.

Thời chưa có Đảng lãnh đạo, chỉ có hai người dân ở làng Lũng Nưa, cùng với hai khẩu súng tại hang này đã kiên cường chống lại 50 tên phỉ Sắn Sình.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

5

Ngườm Bang

Xã Đồng Loan, xã Lý Quốc

Ngườm Bang thuộc Bản Thuộc, tiếp giáp giữa xã Đồng Loan và xã Lý Quốc (huyện Hạ Lang) trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở vùng Bằng Ca đã hình thành khu căn cứ cách mạng xã Thắng Lợi để chống Phỉ. Ngườm Bang là một trong số 3 chốt canh giữ đối phó chống quân Phỉ. Chốt Ngườm Bang do đồng chí Hoàng Văn Lùng (tức Khánh Long) chỉ huy.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Lang 1930-2000. Nxb Mỹ Thuật, năm 2003)

6

Phò Sèn,

Thị trấn Thanh Nhật

Là hai đồi dựng đứng cách nhau chừng 400m, án ngữ về phía Tây, giáp các xóm Ngườm Khang, Đỏng Hoan, Lũng Đốn (thị trấn Thanh Nhật); phía Nam giáp con đường mòn (Ba Rịn) đi lại của Nhân dân các xóm Xa Tao, Nà Tháy, Bản Ngay; phía Đông dưới chân đồi có xóm Xa Tao. Năm 1946, hai đồi đều có dựng chốt, lực lượng dân quân du kích ta hằng ngày thay phiên nhau canh gác để theo dõi và báo động những tình huống địch hoạt động trên không hoặc mặt đất phá hoại ta, để cho Nhân dân quanh vùng an tâm sản xuất sinh sống.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

7

Xa Xê

8

Khau Mòn

Xã An Lạc

Đèo cao thuộc xóm Khuổi Mịt, đèo nhiều tầng, dốc quanh co, dài khoảng 5km. Nơi đã ghi lại thành tích chiến đấu bảo vệ biên giới năm 1979.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

9

Pò Điếm

Xã Đồng Loan

Pò Điếm là núi đất ở phía Tây Bắc bản Mjào, xã Đồng Loan, huyện Hạ Lang, có độ cao 500m so với mặt biển. Điểm cao này án ngữ trong phạm vi quan sát rất rộng. Trong kháng chiến chống Pháp, gọi là Pò Điếm vì nơi đây đã trở thành nơi canh gác, cảnh giới, quan sát máy bay địch và nhận báo tín hiệu bằng ánh lửa, tù và giữa Pò Điếm với Pha Ma Bản Thuộc.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

10

Phja Pjao

Xã Lý Quốc

Phja Pjao (núi nhọn) là ngọn núi nằm ở phía Nam xóm bản Bang, xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, có độ cao 732m so với mực nước biển. Đường kính chân núi khoảng 1.000m. Sườn núi thoai thoải về phía Lũng Phjô, dốc đứng về phía bản Bang và Lũng Búa. Ngọn núi này có đỉnh cao nhọn nên có tên gọi là Phja Pjao (tiếng Tày “Phja là núi, “pjao” có nghĩa là “sắc” và “nhọn”). Đây là một trong những đỉnh núi cao nhất ở khu vực Bằng Ca, đã từng là điểm cảnh giới máy bay địch trong kháng chiến chống Pháp.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

11

Phja Roan

Xã Đồng Loan

Phja Roan nằm ở phía Nam sau xóm bản Lung, xã Đồng Loan, huyện Hạ Lang, cao 500m so với mặt biển. Bốn mặt đều là vách đá dựng đứng khó leo lên được. Núi này gắn liền với truyền thuyết nàng tiên và nàng Tô Thị Hoạn, là một danh lam thắng cảnh đẹp có tiếng ở địa phương.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

(4)

Hòa An

 

1

Na Lữ

Xã Hoàng Tung

Theo Cao Bằng thực lục của Bế Hựu Cung trong cuốn Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (864). Năm Bính Tuất niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), nhà Đường ban cho Cao Biền chức Tĩnh Hải quân tiết trấn, kiêm chư đạo hành doanh Chiêu thảo sứ. Tháng 11 cho xây thành Đại La (Hà Nội), sau đó lệnh cho xây hai thành Na Lữ và thành Phục Hòa.

Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Thế kỷ XVI - XVII, để đề phòng quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc ở Cao Bằng đã tu bổ và sửa chữa thành Na Lữ thành một trung tâm chính trị và quân sự của vùng này. Thành Na Lữ có hình chữ nhật, chiều dài 800m; chiều rộng 600m và tương truyền có 4 cửa (cửa Đông, Tây, Nam, Bắc). Trong thành có 4 gò đất được gọi theo tên bốn con vật là: Long, Ly, Quy, Phượng. Ở giữa thành trước mặt cung điện có ao sen và ruộng bàn cờ….Thành được xây bằng loại gạch vồ, chân thành có chiều rộng 6m, được bao quanh bằng các tảng đá to, phẳng. Thành cao 5m, cổng thành được làm bằng gỗ nghiến to, dày và rất chắc chắn. Trong khoảng 80 năm, nhà Mạc đã cho tu sửa, xây thành cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng thủ, đề phòng sự tấn công của chính quyền Lê - Trịnh. Vì vậy, thành Na Lữ thường được gọi là thành nhà Mạc, đến nay thành Na Lữ chỉ còn lại dấu tích. Vị trí thành Na Lữ ngày nay thuộc xã Hoàng Tung, huyện Hòa An.

(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

2

Pú Luông- Giả Cải

Thị trấn Nước Hai

Trong truyền thuyết nổi tiếng Báo Luông - Slao Cải của đồng bào Tày, hai nhân vật trong truyền thuyết được suy tôn là ông tổ của người Tày cổ Cao Bằng; là thủy tổ gây dựng nền nông nghiệp ở Cao Bằng là Pú Luông, Giả Cải (khi trẻ họ là Báo Luông, Slao Cải lúc cao tuổi họ được tôn là Pú Luông, Giả Cải). Truyền thuyết giải thích về nguồn gốc con người và các hiện tượng thiên nhiên, xã hội. Đây cũng là sự tích về sự ra đời của nghề nông trên đất Cao Bằng. Sau khi ông bà mất, các con lập đền thờ trên gò đất bên suối giữa cánh đồng Bản Vạn. Hiện nay ngôi đền thờ Pú Luông - Giả Cải vẫn còn, thuộc xóm Bản Vạn, Bế Triều, Thị trấn Nước Hai.

(5)

Nguyên Bình

 

1

KOLIA

Xã Thành Công

Tên của kỹ sư người Pháp thiết kế con đường đèo Kolia, thời Thực dân Pháp mở con đường phục vụ khai thác khoáng sản (đèo nằm ở độ cao 1.300m so với mực nước biển).

2

Phja Oắc - Phja Đén

Xã Thành Công

Tên gọi quen thuộc của Nhân dân, dân gian giải thích rằng: Phja Oắc mang tên gọi của cây gỗ quý mạy Oắc (gỗ Ngọc Am) với độ cao 1.931 m; Phja Đén với độ cao 1428m; ngọn núi phát sáng như ngọn đèn, có 2 luồng ý kiến giải thích, đó là do trước đây khi thực dân Pháp tiến hành khai thác khoáng sản tại khu vực Nguyên Bình, đã cho xây dựng nhà máy thủy điện và thắp sáng hàng đêm ở khu vực núi đèo. Hay còn cách lý giải khác là khu rừng, rừng núi nhiệt độ ẩm cao nên có nhiều lân tỉnh phát sáng vào ban đêm.

(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)

3

Tà Sa

Xã Vũ Minh

Thực dân Pháp đã xây dựng nhà máy thủy điện Tà Sa trên con sông De từ năm 1918, cung cấp điện cho Mỏ Thiếc Tĩnh Túc để khai thác tài nguyên khoáng sản, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, nhà máy thủy điện được khôi phục. Năm 1956 công trình được hoàn thành và cung cấp điện cho vùng xung quanh Tà Sa, Minh Tâm.

(Nguồn: Địa chí Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000)

4

Tổng Ngần

Xã Minh Tâm

Tổng Ngần thuộc xã Minh Tâm huyện Nguyên Bình, theo tiếng địa phương nghĩa là đống bạc. Đây là thành lập chi bộ Đảng châu Nguyên Bình (15/11/1935) - chi bộ gồm 4 đồng chí: Dương Mạc Thạch (Bí thư); Trương Nam Hiến; Ma Văn Phái; Đoạn Văn Tằng.

Di tích Tổng Ngần được xếp hạng di tích cấp tỉnh, năm 2009.

(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009; Lý lịch di tích - Bảo tàng tỉnh)

(6)

Quảng Hòa

 

1

Bắc Vọng

Thị trấn Tà Lùng

Bắc Vọng là tên con sông bắt nguồn tại Trung Quốc, chảy qua một số huyện phía Đông tỉnh Cao Bằng rồi tạo thành biên giới tự nhiên giữa Việt Nam-Trung Quốc trước khi hợp lưu với sông Bằng tại thị trấn Tà Lùng.

2

Bó Tờ

Thị trấn Hòa Thuận

Bó Tờ là một tên làng nghề đường phên đã được tỉnh công nhận năm 2019; là một điểm di sản nằm trong tuyến du lịch thứ 4 trong vùng Công viên địa chất Non nước Cao Bằng (đang xây dựng).

3

Đoỏng Lèng

Thị trấn Tà Lùng

Đoỏng Lèng là tên gọi xóm, khu dân cư biên giới từ lâu đời, được Nhân dân địa phương quen gọi và lưu truyền đến ngày nay.

4

Hồng Đại

Xã Bế Văn Đàn

Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Phục Hòa cũ, hiện nay xã Hồng Đại đã sáp nhập hành chính với xã Triệu Ẩu đổi tên thành xã Bế Văn Đàn.

5

Hưng Long

Thị trấn Tà Lùng

Hưng Long là tên gọi địa danh 1 xóm tại thị trấn Tà Lùng từ lâu đời. Là một xóm theo đạo Thiên chúa giáo

6

Hữu Nghị

Huyện Quảng Hòa

Hữu Nghị: Tính từ mang ý nghĩa chỉ mối quan hệ tình bạn, tình đoàn kết thân thiết giữa hai quốc gia: Quan hệ Hữu nghị.

7

Lương Thiện

Thị trấn Hòa Thuận

Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Phục Hòa cũ, hiện nay xã Lương Thiện đã sát nhập hành chính với xã thị trấn Hòa Thuận.

8

Pò Tập

Thị trấn Tà Lùng

Pò Tập là tên gọi xóm, khu dân cư biên giới từ lâu đời, được nhân dân địa phương quen gọi và lưu truyền đến ngày nay

9

Phố Mới; Phố Cũ

Huyện Quảng Hòa

Gọi theo tên tuyến mới và tuyến cũ

10

Phục Hòa

Thị trấn Hòa Thuận

Phố Phục Hòa (Háng Sléng, Háng réng) - là một khu phố cũ được hình thành từ cuối đời nhà Mạc (khoảng những năm 1927), Sléng hay Réng là một sảnh của cung đình, nhà Mạc đi đến đâu thì đặt chợ ở đó; đến nay mặc dù trải qua nhiều biến cố lịch sử nhưng Phố Phục Hòa vẫn là nơi trung tâm giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa của nhân dân; mang đậm nét văn hóa đặc trưng của vùng biên giới.

11

Tân Thịnh

Thị trấn Tà Lùng

Tuyến đường trong khu tái định cư 47.1 được xây dựng, hoàn thành vào năm 2005. Sau khi tuyến đường hoàn thành, Nhân dân xóm Pò Tập, Phia khoang - Thị trấn Tà Lùng đã di cư đến xây dựng nhà cửa, sinh sống dọc 2 bên đường, tạo thành một khu phố nhỏ nhộn nhịp.Đặt tên đường phố Tân Thịnh có nghĩa là đường phố mới được hình thành, và đặt kỳ vọng trong tương lai khu phố sẽ phát triển thịnh vượng.

12

Triệu Ẩu

Xã Bế Văn Đàn

Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Phục Hòa cũ, hiện nay xã Triệu Ẩu sáp nhập hành chính với xã Hồng Đại đổi thành tên xã Bế Văn Đàn.

(7)

Thạch An

 

1

Cạm Phầy

Thị trấn Đông Khê

Cạm Phầy là nơi thực dân Pháp xây dựng các đồn bốt, trong chiến dịch Biên giới 1950, tại trận đánh cứ điểm Đông Khê đây là nơi diễn ra các trận đánh cứ điểm ngoại vi của quân dân ta.

2

Khau Khoang

Xã Thái Cường

Tên gọi con đèo theo đặc điểm hình dáng của con đèo, đèo nằm trên quốc lộ 4 cũ, thuộc xã Thái Cường huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng.

3

Phja Khoá

Thị trấn Đông Khê

Thuộc thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An, đồng thời đây cũng là nơi thực dân Pháp xây dựng các đồn bốt, trong chiến dịch Biên giới 1950, tại trận đánh cứ điểm Đông Khê đây là nơi diễn ra các trận đánh cứ điểm ngoại vi của quân dân ta.

4

Pò Đình

Thị trấn Đông Khê

5

Pò Hẩu

Thị trấn Đông Khê

6

Tu Hin

Thị trấn Đông Khê

Theo tiếng địa phương nghĩa là cửa đá, tên gọi đường cũ từ Đông Khê vào xã Đức Long, gọi theo đặc điểm tự nhiên của địa điểm này.

(8)

Trùng Khánh

 

1

Cảnh Tiên

Xã Đức Hồng

Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Trùng Khánh, hiện nay xã Cảnh Tiên sáp nhập với xã Đức Hồng lấy tên xã Đức Hồng.

2

Co Sầu

Thị trấn Trùng Khánh

Thị trấn Trùng Khánh được hình thành trước thế kỷ XVIII, từ xưa được gọi là phố Co Sầu, xã Lăng Hiếu, tổng Lăng Yên, Thượng Lang tỉnh Cao Bằng. Phố Co Sầu là đầu mối giao lưu giữa các xã trong huyện và các huyện Trà Lĩnh, Hạ Lang, Quảng Uyên (Quảng Hòa), thành phố Cao Bằng và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Tương truyền xưa kia, đây là nơi hội tụ nhiều người ở các vùng, miền qua lại trao đổi hàng hóa, nơi hẹn hò của tình yêu đôi lứa, nên kinh tế phố Co Sầu phát triển. Chợ Co Sầu họp 5 ngày một lần, người đến chợ phải đi từ chiều hôm trước, họ chờ đợi, hẹn hò nhau, góp tiền mua thực phẩm “hắt co kin sầu" - nghĩa là góp cỗ ăn cơm chiều, rồi cùng nhau hát sli, lượn đối đáp… dần dần tạo thành thói quen nên phố nhỏ có tên “Co Sầu" .

(Nguồn: Đài phát thanh và Truyền hình Cao Bằng)

3

Cô Mười

Xã Quang Hán

Cô Mười trước đây thuộc xã Ngoại Trung của huyện Hà Quảng. Theo Quyết định số 127, ngày 05 tháng 04 năm 1965 của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, xã Ngoại Trung được chia thành 4 xã: Trong đó xã Cô Mười. Đến tháng 10-1981, xã Cô Mười được sáp nhập vào huyện Trà Lĩnh. Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Trà Lĩnh cũ, xã Cô Mười sáp nhập hành chính với xã Quang Hán lấy tên xã Quang Hán.

(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển II. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2008)

4

Đình Minh

Thị trấn Trùng Khánh

Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Trùng Khánh, hiện nay xã Đình Minh đã sát nhập với thị trấn Trùng Khánh là một nhân vật hoạt động cách mạng và cũng là địa danh quen thuộc với quần chúng nhân dân.

Đình Minh là một nhân vật hoạt động cách mạng quê ở xóm Thang Lý - xã Đình Minh cũ. Từ năm 1938 - 1939. Đồng chí cùng đồng đội xây dựng được một số cơ sở quần chúng yêu nước, trên nền tảng những cơ sở cách mạng do đồng chí Đình Minh phụ trách nhóm Thang Lý. Tháng 9/1941 đồng chí tham gia hoạt động tuyên truyền cách mạng, gây cơ sở theo hướng Đông, trên tuyến đường Trùng Khánh - Bằng Ca. Đến tháng 10/1941 do yêu cầu cách mạng, nhằm củng cố tổ chức và hành động để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đồng chí đã được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trùng Khánh 1930 - 2005. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2011)

5

Lăng Yên

Xã Lăng Hiếu

Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, địa phận xã Lăng Yên trước kia là xã Hảo Lệ, tổng Lăng Yên, châu Thượng Lang. Tháng 9/1945, hai xã Hảo Lệ và Hiếu Lễ nhập làm một gọi là xã Lăng Hiếu. Từ năm 1946-1947 đổi tên thành xã Trung Phúc. Trung Phúc là bí danh của đồng chí Triệu Trung Nhật, ông hy sinh khi đi tiễu phỉ (8/1945).

Từ năm 1949 đến tháng 9/1958 mang tên xã Lăng Hiếu. Từ tháng 10/1958 - 1981, xã Lăng Hiếu tách thành ba xã: Lăng Hiếu, Lăng Yên và thị trấn.

Năm 2020, xã Lăng Hiếu và Lăng Yên sáp nhập lại thành xã Lăng Hiếu.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trùng Khánh (1930 - 2005. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2011); Địa chí xã Lăng Yên)

6

Phja Khoang

Thị trấn Trùng Khánh

Phja Khoang là tên gọi của khu dân cư Phja Khoang cũ, sau quá trình sáp nhập và đổi tên đã không còn tên gọi nữa.

7

Phja Phủ

Thị trấn Trùng Khánh

Núi Phja Phủ là ngọn núi hình bát úp giữa phố chợ Co Sầu, trong núi có hang sâu, rộng rãi, thoáng mát, bằng phẳng. Theo truyền thuyết thì đây là nơi các trai tráng trong vùng tụ họp, luyện võ để chống giặc “cờ vàng”. Núi Phja Phủ còn gắn liền với đền Quán Thánh - Năm 2014, di tích đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh.

(Nguồn : Lý lịch di tích Đền Quán Thánh - Bảo tàng tỉnh)

8

Trấn Biên

 

Giữa năm 1942, thực dân Pháp tách tổng Trà Lĩnh ra khỏi phủ Trùng Khánh, lập thành Châu Trấn Biên gồm 4 tổng: Ngọc Quản, Tà Lệnh, An Ninh, và Bắc Lục.

Thực hiện Sắc lệnh số 148-SL ngày 25/3/1948 của Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc bãi bỏ các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và cấp dưới cấp tỉnh thống nhất gọi là cấp huyện. Châu Trấn Biên đổi tên thành huyện Trấn Biên, gồm 4 xã: Cao Chương, Quang Hán, Lưu Ngọc và Quang Trung. Năm 1958, huyện Trấn Biên được đổi tên thành huyện Trà Lĩnh.

(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trà Lĩnh 1930-2015)

9

Ngọc Chung

Xã Khâm Thành

Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Trùng Khánh, hiện nay xã Ngọc Chung sáp với xã Khâm Thành lấy tên xã Khâm Thành.

[...]