Quyết định 24/2006/QĐ-UBND phê duyệt đề án Tăng cường quản lý, thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

Số hiệu 24/2006/QĐ-UBND
Ngày ban hành 30/03/2006
Ngày có hiệu lực 09/04/2006
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Bắc Giang
Người ký Nguyễn Công Bộ
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí,Bộ máy hành chính

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG

--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 24/2006/QĐ-UBND

Bắc Giang, ngày 30 tháng 03 năm 2006

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN: "TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ, THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG"

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội nước CNXHCN Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ các Luật Thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ và Bộ Tài chính;

Xét đề nghị của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh tại Tờ trình số 124CT/THDT, ngày 13 tháng 3 năm 2006,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án "Tăng cường quản lý, thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang" (có đề án đính kèm)

Điều 2. Giao cho Cục trưởng Cục Thuế chủ trì phối hợp với Chủ tịch UBND các huyện, thành phố và các ngành liên quan, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện.

Điều 3. Quyết định có hiệu lực sau 10 ngày, kể từ ngày ký.

Thủ trưởng các cơ quan: Văn phòng UBND tỉnh, Cục Thuế, Công an tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Xây dựng, Sở Giao thông vận tải, Sở Thương mại và Du lịch, Kho bạc Nhà nước tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố và các đơn vị, cá nhân có liên quan thi hành Quyết định này./.

 

 

TM. UBND TỈNH BẮC GIANG
KT.CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Nguyễn Công Bộ

 

ĐỀ ÁN

TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ, THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH (NQD) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 24/2006/QĐ-UBND ngày 30/3/2006 của UBND tỉnh Bắc Giang)

MỞ ĐẦU

Những năm qua thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế NQD trên địa bàn tỉnh Bắc Giang phát triển mạnh. Khu vực hộ kinh doanh cá thể phát triển cả về số hộ và quy mô, ngành nghề kinh doanh, nhiều hộ phát triển thành các doanh nghiệp và Công ty, sự phát triển của khu vực ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước đã và đang trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế NQD phát triển còn góp phần quan trọng thực hiện các chủ trương khác của Đảng và Nhà nước, như: Chủ trương xóa đói giảm nghèo, phân bố lại cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, xóa bỏ dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi với miền ngược, vv…

Hoạt động của khu vực kinh tế NQD rất năng động và phong phú, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Doanh nghiệp cổ phần, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, là một trong những động lực thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu. Vì vậy trong những năm qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó có chủ trương phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các lọai hình doanh nghiệp của tư nhân, khuyến khích mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo bộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, tiếp cận các cơ hội nguồn lực kinh doanh, vv; đồng thời tôn vinh những người sản xuất kinh doanh giỏi, chấp hành tốt các chính sách pháp luật, xóa bỏ mọi rào cản hữu hình và vô hình, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp cùng tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả lĩnh vực kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà Pháp luật không cấm.

Phần 1.

ĐẶC ĐIỂM, HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH, THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NQD TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG TRONG NHỮNG NĂM QUA.

I. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH KHU VỰC KINH TẾ NQD

Khái quát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế NQD trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

Từ năm 1990, khi thực hiện Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, số lượng các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế NQD tăng lên nhanh chóng, trong 5 năm (2001 - 2005) số lượng các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế NQD tỉnh Bắc Giang đã tăng bốn (04) lần so với số lượng doanh nghiệp ở thời điểm năm 2000 (Có biểu số 01 đính kèm).

Thành phần kinh tế hộ cá thể cũng phát triển, đến hết năm 2005 toàn tỉnh Bắc Giang có gần 17.000 hộ kinh doanh, trong đó đã và đang quản lý, thu thuế trên 16.000 hộ, còn lại là các hộ thuộc đối tượng có thu nhập thấp, được miễn thuế và những người kinh doanh vãng lai, những hộ nông dân tranh thủ làm thêm ngoài thời vụ nông nghiệp.

2. Đặc điểm công tác quản lý, thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD trên địa bàn.

Tính đến hết ngày 31/12/2005, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã có 731 doanh nghiệp dân doanh, gần 17.000 hộ kinh doanh. Là một trong những khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Riêng về số thu ngân sách nhà nước (loại trừ thu tiền sử dụng đất) năm 2005, tổng thu 46,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 17%; năm 2006 dự toán giao 55 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 20% trong tổng số thu ngân sách. Trong những năm tới khu vực kinh tế NQD sẽ tiếp tục phát triển mạnh, ước tính đến năm 2010 sẽ có 2.000 doanh nghiệp dân doanh và khoảng 30.000 hộ kinh doanh.

Tuy có số lượng lớn, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp dân doanh quy mô còn nhỏ bé, vốn bình quân một doanh nghiệp 1.182 triệu đồng, lao động bình quân 13 người/doanh nghiệp; các hộ kinh doanh, vốn bình quân một hộ kinh doanh khoảng 20 triệu đồng; lao động thuê ngoài chiếm số lượng nhỏ, chủ yếu là hộ sử dụng lao động trong gia đình. Lĩnh vực ngành nghề kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, số cơ sở sản xuất kinh doanh phân bổ không đều giữa các vùng miền. Trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp; năng lực quản lý còn nhiều hạn chế, năng suất lao động, thu nhập của đại bộ phận người lao động còn thấp, nhận thức và việc chấp hành chính sách pháp luật về thuế chưa cao, v.v. (Có biểu số 02 đính kèm).

[...]