UỶ BAN NHÂN
DÂN
TỈNH VĨNH LONG
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
2018/QĐ-UBND
|
Vĩnh Long,
ngày 10 tháng 10 năm 2006
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TỈNH
VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2006-2010
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân, ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Quyết định số 62/QĐ-TU, ngày 27 tháng
4 năm 2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo và các tiểu
ban thực hiện 5 chương trình mục tiêu theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long lần VIII, nhiệm kỳ 2005 - 2010;
Xét Tờ trình số 216/SCN, ngày 07/9/2006 của
Giám đốc Sở Công nghiệp tỉnh Vĩnh Long,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Nay ban hành kèm theo quyết định này Đề án "Phát triển
tiểu thủ công nghiệp tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010".
Điều 2. Giám đốc Sở Công nghiệp chủ trì, phối hợp với các thành viên
Ban Chỉ đạo và các ngành có liên quan, các cấp chính quyền địa phương tổ chức
thực hiện Đề án này.
Điều 3. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Công nghiệp,
các thành viên Ban Chỉ đạo, Thủ trưởng các Sở, ban ngành tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân các huyện, thị xã chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày,
kể từ ngày ký và được đăng Công báo tỉnh./.
|
TM. UỶ BAN
NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trương Văn Sáu
|
ĐỀ ÁN
PHÁT TRIỂN TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TỈNH VĨNH LONG, GIAI ĐOẠN
2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2018/QĐ-UBND, ngày 10 tháng 10 năm 2006 của
Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long)
Phần I
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TIỂU
THỦ CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2001 - 2005)
Công nghiệp Vĩnh Long nếu xét trình độ sản xuất
được chia làm 2 ngành: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (TTCN). Trong đó
ngành TTCN chiếm 60% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tỉnh, xét về cơ cấu
kinh tế chưa phải là ngành kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của
tỉnh, nhưng rất đa dạng bao gồm nhiều ngành như cơ khí, kỹ thuật điện, điện tử,
gia công kim loại, hóa chất, vật liệu xây dựng, gốm mỹ nghệ, chế biến lương thực,
thực phẩm, dệt, da, may... được hình thành và phát triển dựa trên nguồn nguyên
liệu và lao động địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu công nghiệp của tỉnh như ngành chế
biến lương thực - thực phẩm, chế biến thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sản
xuất gốm mỹ nghệ, hóa chất và dược liệu, thuốc lá, may mặc, giày da… Trong thời
gian qua 5 năm (2001 - 2005), ngành TTCN đã đạt được kết quả như sau:
1. Qui mô, nhịp độ phát triển và tỷ trọng
TTCN trong cơ cấu ngành CN của tỉnh Vĩnh Long:
Trong giai đoạn 2001 - 2005, giá trị sản xuất
công nghiệp tỉnh Vĩnh Long tăng trưởng bình quân 17,23%/năm. Năm 2001 đạt
1.021,995 tỷ đồng (giá cố định năm 1994) đến năm 2005 đạt 2.021,555 tỷ đồng;
qui mô của ngành đã tăng lên gấp 2 lần.
Trong giá trị trên, giá trị sản xuất TTCN cho
năm 2005 là 1.319,922 tỷ đồng chiếm 65,29% giá trị sản xuất toàn ngành, so năm
2000 tăng 2,35 lần. Tốc độ phát triển bình quân hàng năm là 18,70%/năm so với tốc
độ phát triển bình quân toàn ngành (17,23%) cao hơn chút ít (1,47%) chứng tỏ
ngành TTCN phát triển tương ứng với tốc độ phát triển toàn ngành nhưng do có điểm
xuất phát thấp, qui mô nhỏ nên chưa tạo sự phát triển đột phá nhanh, ổn định
trong cơ chế kinh tế thị trường.
Sản phẩm ngành nghề TTCN theo thống kê chưa đầy
đủ có đến 48 loại sản phẩm chiếm tỷ trọng cao là xay xát lúa gạo, các sản phẩm
chế biến từ gạo, nước tương, nước mắm, nem chả, cưa xẻ gỗ, máy móc dân dụng,
đóng ghe tàu, gốm gạch, chiếu thảm xuất khẩu.
Các sản phẩm từ ngành nghề TTCN đa số tiêu thụ nội
địa, các ngành nghề truyền thống như mặt hàng đan đát từ mây tre, trúc, lá dừa,
đồ gỗ dân dụng, nem chả, bán bánh tàu hủ, nước tương, nước chấm ít bị tác động
của hàng hoá công nghiệp từ các đô thị đổ về. Trong quá trình sản xuất, để
thích ứng các cơ sở thường xuyên thay đổi mẫu mã, thu hẹp hoặc mở rộng tuỳ sức
mua trên thị trường nên sản phẩm tiêu thụ tốt. Tuy nhiên do quá trình hội nhập
một số sản phẩm chủ lực của ngành: Gạch ngói, nấm rơm muối, gốm mỹ nghệ, chiếu
thảm xuất khẩu chịu nhiều sức ép của kinh tế thị trường nhưng qui mô sản xuất vẫn
phát triển do có sự cạnh tranh về giá, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải
thiện theo đòi hỏi cao nhiều hơn của khách hàng.
2. Về số lượng cơ sở sản xuất:
Năm 2001 có 5.896 cơ sở, đến năm 2005 có 7.176
cơ sở sản xuất công nghiệp, tăng 1.280 cơ sở, thu hút thêm 12.574 lao động,
tính đến cuối năm 2005 đã có 49.736 lao động làm việc trong ngành TTCN. Trong tổng
số cơ sở sản xuất TTCN khu vực kinh tế cá thể có 6.921 cơ sở, chiếm 96,44%; khu
vực tư nhân và hỗn hợp 249 cơ sở chiếm 3,46%.
Số cơ sở sản xuất được phân bố như sau:
- Thị xã Vĩnh Long: 1.453 cơ sở, khu vực cá thể
1.401 cơ sở.
- Huyện Long Hồ: 891 cơ sở, khu vực cá thể 833
cơ sở.
- Huyện Mang Thít: 1.592 cơ sở, khu vực cá thể
1.504 cơ sở.
- Huyện Bình Minh: 1.079 cơ sở, khu vực cá thể
1.056 cơ sở.
- Huyện Tam Bình: 574 cơ sở, khu vực cá thể 562
cơ sở.
- Huyện Trà Ôn: 687 cơ sở, khu vực cá thể 681 cơ
sở.
- Huyện Vũng Liêm: 900 cơ sở, khu vực cá thể 884
cơ sở.
Qua số liệu trên, số cơ sở sản xuất cá thể chiếm
tỷ trọng cao và phân bố nhiều ở huyện Mang Thít, thị xã Vĩnh Long, huyện Bình
Minh.
Nhóm ngành nghề sản phẩm đất nung gạch ngói có đến
91,13% số cơ sở nằm trên địa bàn huyện Mang Thít, gốm mỹ nghệ có đến 68,8% ở
huyện Mang Thít, 30% nằm trên huyện Long Hồ và thị xã Vĩnh Long.
Nhóm ngành chế biến lương thực - thực phẩm:
+ Xay xát gạo có 20,95% cơ sở nằm trên địa bàn
huyện Trà Ôn, Tam Bình là 19,5%, Long Hồ là 13,01%, huyện Mang Thít và Bình
Minh là 12,67%.
+ Sản xuất bún bánh, hủ tiếu có 24,21% nằm trên
địa bàn huyện Vũng Liêm, huyện Bình Minh là 17,89%, huyện Tam Bình 16,8%, huyện
Long Hồ và Mang Thít đều trên 10%.
+ Sản xuất tương chao, tàu hủ có 29,27% cơ sở nằm
trên địa bàn huyện Bình Minh, huyện Vũng Liêm là 26,83%, huyện Long Hồ là
21,99%, huyện Mang Thít 12,20%.
+ Sản xuất nước chấm: có đến 65% cơ sở nằm trên
địa bàn huyện Bình Minh, huyện Long Hồ 35%.
+ Sản xuất bánh kẹo có đến 62,5% nằm trên địa
bàn huyện Vũng Liêm, huyện Tam Bình 8,33%.
+ Sấy trái cây có đến 66% nằm trên địa bàn huyện
Long Hồ, 32% nằm huyện Vũng Liêm và 2% nằm trên huyện Mang Thít.
Nhóm chế biến gỗ và lâm sản:
+ Cưa xẻ gỗ có đến 29,17% nằm trên địa bàn huyện
Vũng Liêm; 20% huyện Mang Thít; huyện Trà Ôn 14,17%; 12,5% ở huyện Tam Bình;
8,33% huyện Long Hồ.
+ Đóng tàu thuyền có đến 34,88% cơ sở nằm trên
huyện Long Hồ; 23,26% huyện Vũng Liêm; 20,93% huyện Tam Bình; huyện Bình Minh
11,63%.
+ Đan đát có đến 85,55% cơ sở nằm trên huyện
Mang Thít; 9,54% cơ sở huyện Bình Minh; 3,76% huyện Long Hồ và Vũng Liêm 1,16%.
+ Dệt chiếu có đến 91,53% cơ sở nằm trên địa bàn
Vũng Liêm; 5,3% ở huyện Long Hồ còn lại một số nhỏ nằm huyện Mang Thít, Bình
Minh.
Nhóm ngành cơ khí, hàn tiện có đến 27,06% nằm
trên địa bàn huyện Vũng Liêm; 17,65% ở huyện Mang Thít; 17,06% huyện Bình Minh;
15,88% huyện Tam Bình; huyện Long Hồ 12,94%; huyện Trà Ôn 7,06% và thị xã Vĩnh
Long 2,35%.
Từ những dữ liệu trên, huyện Mang Thít có thế mạnh
về phát triển ngành nghề gạch ngói, gốm mỹ nghệ; huyện Long Hồ có thế mạnh phát
triển ngành nghề sơ chế, chế biến trái cây, dệt kết thảm, chằm nón lá, du lịch
sinh thái; huyện Vũng Liêm có thế mạnh về phát triển chế biến lương thực, sơ chế
nấm rơm, dệt chiếu hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến gỗ, cơ khí hàn tiện; huyện
Tam Bình có thế mạnh về phát triển xay xát lúa gạo; huyện Bình Minh có thế mạnh
các cơ sở chế biến thực phẩm (tương chao, tàu hủ, nước chấm); huyện Trà Ôn chưa
thấy xuất hiện thế mạnh phát triển ngành nghề TTCN; thị xã Vĩnh Long ngành nghề
TTCN khá đa dạng với nhiều nghề chế biến từ gạo, thực phẩm, gốm gạch, thủ công
mỹ nghệ, hóa nhựa, bao bì, cơ khí sửa chữa, sản xuất kim loại, xà lan, vật liệu
xây dựng, đồ mộc dân dụng, điện, điện tử, nước đóng chai, khai thác cát và san
lấp mặt bằng…
3. Về lao động:
Tham gia vào ngành nghề TTCN chiếm trên 94,82% tổng
số lao động công nghiệp và chiếm 8,30% tổng số lao động làm việc trong các
ngành kinh tế, chất lượng lao động còn thấp chưa qua đào tạo chiếm 76,91%.
Chính vì vậy từ năm 2000 cho đến nay Sở Công nghiệp đã phối hợp với Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội đã đào tạo 23.237 lao động từ dự án dạy nghề với các ngành
dệt chiếu, sản xuất gốm, thêu lụa, sửa xe gắn máy, tiện, may công nghiệp, các
nghề kỹ thuật nông nghiệp, điện lạnh, cơ khí, gò hàn... Ngoài ra Sở mở 7 lớp tập
huấn an toàn công nghiệp cho 280 lượt người tham dự, tổ chức lớp quản đốc sản
xuất theo chương trình MPDF cho 44 học viên, phối hợp cùng Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam chi nhánh tại Cần Thơ tổ chức nâng cao nghiệp vụ kế toán
và ứng dụng phần mềm kế toán, các lớp khởi sự doanh nghiệp, hội thảo về phát
triển ngành gốm để tìm biện pháp nâng cao sức cạnh tranh.
4. Về khoa học công nghệ:
Các cơ sở ngành nghề TTCN qui mô sản xuất nói
chung nhỏ, vốn đầu tư thấp nên thiết bị công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm
kém, số cơ sở sản xuất có dây chuyền thiết bị hiện đại chưa có, công nghệ thiết
bị trung bình có 2,8% còn lại 97,2% có công nghệ thiết bị lạc hậu. Trong các
nhóm ngành nghề, nhóm xay xát lúa gạo, sản xuất gạch ngói, gốm mỹ nghệ, dệt kết
thảm, may đo có công nghệ tương đối khá, số còn lại hoàn toàn sản xuất bằng thủ
công hoặc trình độ cơ khí ở mức thấp. Từ sự yếu kém về nhà xưởng, công nghệ thiết
bị như hiện nay, ngành nghề TTCN gặp khó khăn lớn trong việc cạnh tranh với
cùng loại sản phẩm có mặt ở thị trường trong nước. Mặt khác sản xuất ngành nghề
TTCN có ô nhiễm môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, hàng hóa chưa cao nên có
tác động đến sức khoẻ cộng đồng, bệnh nghề nghiệp. Vì vậy, cần có biện pháp như
quy hoạch khu sản xuất, nhà ở riêng biệt và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong
dây chuyền sản xuất, xử lý chất thải, khói bụi, nước thải để giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Quan tâm tổ chức quản lý hệ thống chất lượng quốc tế.
5. Làng nghề và cụm sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp:
Hiện nay chưa có tiêu chí về làng nghề TTCN Việt
Nam, nếu lấy tiêu chí trước đây do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn qui định
tạm thời là làng nghề có 50% số lao động tham gia hoạt động nghề, thu nhập tối
thiểu phải bằng 50% tổng thu nhập của làng. Căn cứ vào tiêu chí trên ở Vĩnh
Long có 11 làng nghề trong khu vực nông thôn, trong đó có 8 làng nghề sản xuất
gạch ngói, một làng nghề chằm nón lá, một làng nghề chằm lá lợp nhà, một làng
nghề đan đát, thúng, rổ, cần xé từ tre. Địa bàn chủ yếu làng nghề chủ yếu ở huyện
Mang Thít và Long Hồ.
Trong 11 làng nghề trên, số làng nghề gạch ngói
hiện phải chịu nhiều sức ép của cùng sản phẩm cùng loại có chất lượng cao, mẫu
mã đẹp. Vì vậy, nếu các làng nghề không thích ứng nhanh với cơ chế thị trường,
không có giải pháp khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá,
xúc tiến thương mại, hợp tác sản xuất sẽ gặp nhiều khó khăn cho phát triển tới.
Trong năm 2005, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điều chỉnh tiêu chí làng
nghề từ 50% xuống 30%, căn cứ tiêu chí phát triển làng nghề mới theo chương
trình mỗi làng một nghề, Vĩnh Long có 67 làng nghề chưa đạt tiêu chí và dự kiến
phát triển thêm 63 làng nghề mới.
Về khu, cụm CN - TTCN cho ngành nghề TTCN, đến
nay ngoài 3 khu công nghiệp tập trung của tỉnh (tuyến công nghiệp Cổ Chiên, Khu
công nghiệp Hoà Phú, Khu công nghiệp Bình Minh), các huyện Vũng Liêm, Tam Bình,
Trà Ôn đã tiến hành quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN
- TTCN) cho giai đoạn 2006 - 2015, trong đó đã xác định cụm CN - TTCN với qui
mô nhỏ và vừa nhằm phát triển ngành nghề TTCN, các huyện còn lại và thị xã Vĩnh
Long xây dựng đề án phát triển 5 năm (2006 - 2010) và cũng xác định phát triển
một số cụm công nghiệp. Huyện Vũng Liêm đã xúc tiến quy hoạch chi tiết cụm CN -
TTCN, huyện Tam Bình đã xác định được 6 khu, cụm CN - TTCN với qui mô 184ha nằm
dọc QL 1A, huyện Trà Ôn xác định khu CN - TTCN ở gần thị trấn với qui mô 50ha.
Các huyện còn lại cũng đang xúc tiến quy hoạch và xác định cụ thể khu, cụm CN -
TTCN cho giai đoạn 2006 - 2010.
6. Các thành phần kinh tế tham gia hoạt động
TTCN.
Khu vực sản xuất TTCN trong 5 năm qua tiếp tục
phát triển ổn định và đạt mức tăng trưởng cao, trong đó khu vực kinh tế tư nhân
tăng bình quân 27,43%/năm, kinh tế hỗn hợp tăng bình quân 34,09%/năm, kinh tế tập
thể giảm bình quân là 33,45%, kinh tế cá thể tăng bình quân là 9,09%. Tỷ trọng
của khu vực này chiếm 60% vào năm 2001 đã tăng lên 65,3% vào năm 2005, đóng góp
cho sự tăng trưởng ở khu vực TTCN chủ yếu là thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế
hỗn hợp, kinh tế cá thể, đó là do cơ chế chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp
sự đổi mới kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường nên đã tạo môi trường hoạt động
sản xuất kinh doanh cho khu vực TTCN phát triển, góp phần công cuộc công nghiệp
hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) nông nghiệp và nông thôn.
Nhận xét đánh giá chung về ngành nghề TTCN:
Ngành nghề TTCN trong thời gian qua có bước phát
triển khá. Thích ứng nhanh với thị trường, khai thác tốt nguồn nguyên liệu tại
địa phương, giải quyết được nhiều việc làm cho người dân ở nông thôn, tăng thêm
thu nhập, cải thiện được cuộc sống theo xu thế phát triển chung của xã hội.
Sự liên kết trong sản xuất được quan tâm nên đã
hình thành được làng nghề và hội ngành nghề như Hội nghề gốm mỹ nghệ xuất khẩu,
bước đầu đã tạo được tiếng nói chung.
Đầu tư cơ sở hạ tầng ở nông thôn được Nhà nước
và nhân dân cùng thực hiện điện, nước, đường xá, trạm, trại… nên đã tạo điều kiện
sản xuất ngành nghề TTCN phát triển trên cơ sở khai thác được tiềm năng lợi thế
từng vùng như công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, công nghiệp sửa chữa
cơ khí, gạch ngói, gốm, may mặc, giày da...
Quá trình phát triển ngành nghề TTCN trong những
năm qua đã làm cho tỷ lệ hộ thuần nông giảm, tỷ lệ hộ kiêm ngành nghề và hộ
chuyên ngành TTCN tăng và hình thành một số cụm, điểm công nghiệp xay xát, sản
xuất gạch, gốm.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được trong quá
trình phát triển ngành nghề TTCN trong thời gian qua vẫn còn những yếu kém.
Các cơ sở sản xuất ngành nghề TTCN chủ yếu là
các cơ sở có qui mô nhỏ ở dạng gia đình, vốn đầu tư các cơ sở này rất thấp, nguồn
vốn hoạt động của các cơ sở ngành nghề ít, vốn tín dụng cho sản xuất ngành nghề
TTCN chưa được người sản xuất ngành nghề TTCN được tiếp cận thuận lợi, dễ dàng
như các ngành nghề khác, kỹ thuật và công nghệ sản xuất khu vực TTCN đại bộ phận
lạc hậu và không đồng bộ, thông thường là những máy móc được trong nước hoặc địa
phương tự chế tạo với máy động lực nhập ngoại, những công cụ cải tiến hoặc thiết
bị thải loại ở các ngành nghề đô thị và nước ngoài.
Sản phẩm ngành nghề TTCN đa phần chất lượng kém,
mẫu mã đơn giản, tiêu hao nhiều nguyên liệu, vật liệu, năng lượng. Thị trường
tiêu thụ chưa chủ động tiêu thụ, chưa tạo được thương hiệu mang tầm cỡ khu vực
và cả nước.
Nguồn nhân lực, lao động nông thôn ít được đào tạo,
chủ yếu qua truyền thống hoặc đào tạo ngắn hạn tại địa phương nên khả năng tiếp
thu và vận hành, nâng cao năng lực sản xuất còn nhiều hạn chế so với khu vực đô
thị.
Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư ngành nghề
TTCN chưa được cụ thể hoá rõ ràng, đầy đủ, nhận thức của từng địa phương khác
nhau nên sự hỗ trợ khuyến khích đầu tư ngành nghề TTCN còn hạn chế, chưa khơi dậy
sự năng động và tiềm năng của khu vực này. Mặt khác, các loại hình dịch vụ,
thông tin, thị trường, giá cả, tư vấn, kỹ thuật hỗ trợ ngành nghề chưa có.
Sự hợp tác liên kết giữa các cơ sở sản xuất TTCN
chưa chặt chẽ, mối quan hệ giữa TTCN và công nghiệp lớn ở đô thị, khu công nghiệp
trong và ngoài tỉnh. Chưa có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ở đô thị
và khu công nghiệp đầu tư về nông thôn, sử dụng lao động và nguồn nguyên liệu tại
chỗ nông thôn để phát triển TTCN.
Cơ sở hạ tầng về giao thông, điện, nước thời
gian qua có đầu tư cải thiện nhưng chủ yếu phục vụ sinh hoạt người dân nên cũng
hạn chế đến phát triển ngành nghề TTCN nên dễ dẫn đến chi phí sản xuất ở khu vực
TTCN cao, sản xuất ở khu vực TTCN đa phần còn xen lẫn trong dân cư dễ gây ô nhiễm
môi trường.
Nguyên nhân tồn tại và yếu kém:
- Nhận thức phát triển ngành nghề TTCN chưa được
các ngành các cấp và doanh nghiệp chưa toàn diện và đồng bộ trong quá trình thực
hiện CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành nghề TTCN còn yếu
kém, lạc hậu và hiệu quả sản xuất chưa cao.
- Sự cạnh tranh của công nghiệp đô thị, khu CN
và hàng hoá ngoại nhập đã làm nhiều ngành nghề TTCN không phát triển hoặc mất
đi như nghề làm đường ở Tam Bình.
- Lực lượng lao động dồi dào nhưng trình độ còn
thấp chưa tương ứng với yêu cầu hiện đại hoá kinh tế nông thôn.
- Cơ chế, chính sách cho phát triển ngành nghề
TTCN còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ chưa cụ thể rõ ràng trong lĩnh vực ưu đãi
đầu tư, thuế, đất đai, tín dụng.
Bài học kinh nghiệm:
- Việc phát triển ngành nghề TTCN được cấp uỷ,
chính quyền quan tâm dẫn đến ngành nghề TTCN phát triển từ đó được nhân ra
phong trào, là điều kiện động lực phát triển cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng CNH - HĐH.
- Sự quyết tâm của những doanh nghiệp, hộ cá thể,
người lao động trong khu vực TTCN có lòng yêu nghề, mong muốn vượt lên để trở
thành nhà sản xuất kinh doanh có uy tín và thương hiệu trên thị trường trong nước
và ngoài nước là nhân tố, động lực thúc đẩy ngành nghề TTCN phát triển.
- Việc cải cách thủ tục hành chánh từ quản lý
sang hỗ trợ đã tạo điều kiện các cơ sở sản xuất ngành nghề yêu cầu đầu tư hoặc
mở rộng sản xuất đã tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, thông thoáng.
Phần II
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TIỂU
THỦ CÔNG NGHIỆP TỈNH VĨNH LONG THỜI KỲ 2006 - 2010
1. Quan điểm:
Phát triển TTCN nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao giá trị tài nguyên, nguyên liệu nông - lâm -
thuỷ sản và nguồn nhân lực góp phần đẩy mạnh CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Phát triển ngành nghề TTCN phải gắn chặt với sản
xuất nông nghiệp, tạo ra mối quan hệ hỗ trợ cạnh tranh để làm cho kinh tế - xã
hội được phát triển bền vững.
Phát triển ngành nghề TTCN phải đặt trong mối
quan hệ chặt chẽ công nghiệp đô thị, hai khu công nghiệp và tuyến công nghiệp tập
trung (Khu công nghiệp Hoà Phú, Khu công nghiệp Bình Minh, tuyến công nghiệp Cổ
Chiên). Kết hợp hài hoà nhiều mô hình sản xuất, nhiều loại hình tổ chức và sở hữu,
kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống nhằm khai thác tài nguyên
và sử dụng có hiệu quả lao động nông thôn.
Phát triển ngành nghề TTCN phải gắn với điều kiện
đặc điểm tự nhiên, lợi thế, chú ý đến hiệu quả kinh tế, đẩy mạnh phát triển
ngành nghề truyền thống, phát triển ngành nghề mới, áp dụng những công nghệ hiện
đại hình thành các cụm, các trung tâm công nghiệp dịch vụ ở xã vùng sâu, vùng
xa, vùng nông thôn ven đô thị.
Phát triển ngành nghề TTCN phải phù hợp với qui
hoạch định hướng kinh tế - xã hội, tạo động lực xoá đói giảm nghèo, tạo sự chuyển
dịch kinh tế ở nông thôn, xã hội văn hoá ngày càng được cải thiện xoá dần cách
biệt giữa nông thôn và thành thị, xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất
đồng thời gắn với việc phát triển bền vững.
2. Định hướng phát triển:
Định hướng phát triển ngành nghề TTCN giai đoạn
2006 - 2010 tỉnh tập trung chủ yếu vào các ngành:
2.1. Gạch, gốm mỹ nghệ xuất khẩu:
Ổn định ngành nghề gạch ngói hiện có, nâng dần
chất lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và có điều chỉnh phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.
Đẩy mạnh phát triển gốm mỹ nghệ xuất khẩu gắn với
vùng nguyên liệu, đa dạng hoá sản phẩm, tiếp cận thị trường xuất khẩu. Tạo dựng
và phát triển thị trường cả trong nước và ngoài nước gắn phát triển làng nghề gốm
với phát triển du lịch sinh thái.
2.2. Chế biến và bảo quản nông - lâm - thuỷ sản:
Quy hoạch ổn định các cây, con vật nuôi phát triển
có lợi thế so sánh về nguồn nguyên liệu. Chú ý nâng cao chế biến và bảo quản
các mặt hàng gạo, nấm, các loại bưởi, cam và các loại cây ăn trái, rau đậu củ,
heo, bò, cá, thuỷ sản… theo hướng trồng, nuôi trồng, chế biến và bảo quản sạch
để đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu và tính cạnh tranh. Xây dựng hệ thống
giao thông nông thôn, hệ thống điện, nước, thuỷ lợi hoàn chỉnh phục vụ cho trồng
trọt, chăn nuôi, vận chuyển và chế biến sản phẩm thuỷ sản thành hệ thống liên
hoàn, khép kín. Chú ý nâng cao chất lượng ngành nghề nước chấm, tàu hủ, chao,
chế biến rau củ, đóng hộp quy mô gia đình từng bước tiến tới quy mô nhỏ và vừa.
2.3. Thủ công mỹ nghệ:
Phát triển ngành nghề dệt chiếu, đan đát, sản phẩm
tiểu thủ công nghiệp từ các nguyên liệu nông nghiệp để tạo ra giá trị sản phẩm
hàng hoá xuất khẩu và giải quyết việc làm, cần chú ý đến thị trường tiêu thụ, từng
bước đưa cơ giới hoá vào sản xuất, chú ý đến việc phát triển thị trường mới,
khuyến khích phát triển làng nghề đồng thời gắn kết với du lịch sinh thái ở các
xã cù lao.
2.4. May mặc, giày da:
Phát triển việc may mặc đáp ứng nhu cầu nội địa,
từng bước phát triển cụm công nghiệp để có điều kiện phát triển gia công may mặc,
giày da của các doanh nghiệp ở các khu công nghiệp tập trung và đô thị lớn.
2.5. Cơ khí:
Phát triển các cơ sở dịch vụ sửa chữa máy móc
nông nghiệp tuyến xã, tuyến sông với 2 loại hình cơ động và cố định, đảm bảo
cho việc sửa chữa bảo hành các loại máy công cụ phục vụ cho quá trình CNH nông
nghiệp, nông thôn và giao thông vận tải, các ngành nghề ở nông thôn có sử dụng
máy móc, tiến tới sản xuất và lắp ráp, chế tạo các loại máy công cụ, hàng gia dụng,
các dụng cụ chuyên dùng cho quá trình cơ giới hoá ngành nghề nông thôn và hiện
đại hoá nông thôn.
2.6. Đẩy mạnh phát triển dịch vụ TTCN trong lĩnh
vực thương mại cung ứng vật tư nông nghiệp, giao thông nông thôn đường bộ và đường
thuỷ, các loại hình du lịch trên cơ sở khai thác tiềm năng và thế mạnh của vùng
du lịch sinh thái miệt vườn, sông nước kết hợp tham quan nông nghiệp nông thôn,
làng nghề, ngành nghề truyền thống. Hỗ trợ các hoạt động dịch vụ tư vấn, dịch vụ
bảo hiểm, dịch vụ đào tạo nghề, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ thị trường giá cả các
loại hàng hoá nông sản, giá cả vật tư cho khu vực nông thôn để nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành nghề nông thôn.
2.7. Phát triển làng nghề:
Làng nghề là nơi sản xuất tập trung hàng hoá với
khối lượng lớn và có lao động nhiều có khả năng đáp ứng cho thị trường trong nước
và xuất khẩu. Tiếp tục củng cố và phát huy làng nghề hiện có đồng thời mở rộng
phát triển làng nghề với từng bước các huyện quy hoạch hình thành các cụm công
nghiệp để phát triển làng nghề nông thôn theo hướng CNH - HĐH phù hợp với quá
trình xây dựng nông thôn mới. Tập trung vào lợi thế và lao động của địa phương
mà hình thành hoặc nhân rộng các sản phẩm mà nhiều người biết nhưng còn ở dạng
sản xuất gia đình trở thành làng nghề để bảo tồn và duy trì phát triển cả về
kinh tế - xã hội - văn hoá.
3. Mục tiêu đến 2010:
Phát triển ngành nghề TTCN hướng tới:
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất TTCN nhằm tạo ra
giá trị hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Đến năm 2010 ngành nghề
TTCN có giá trị sản xuất tăng gấp 2 lần so năm 2005.
- Phấn đấu đến năm 2010, tỷ trọng giá trị TTCN
trên địa bàn huyện chiếm 20-25% giá trị sản xuất chung của từng huyện.
- Tăng tỷ trọng lao động tham gia ngành nghề TTCN
đến năm 2010 chiếm 18% trong tổng số lao động làm việc ở các ngành kinh tế.
- Phát huy các yếu tố nội lực và các hợp tác ngoại
lực trên cơ sở lợi thế của từng vùng kiện toàn ổn định ngành nghề TTCN, làng
nghề hiện có đồng thời xúc tiến phát triển các cụm, khu công nghiệp vừa và nhỏ
để tạo điều kiện phát triển làng nghề. Phấn đấu đến năm 2010 hình thành mỗi huyện,
thị xã có cụm công nghiệp hoàn chỉnh, từng bước phát triển mỗi làng một nghề.
- Chú trọng ứng dụng công nghệ sinh học và xây dựng
tiềm lực khoa học công nghệ để phục vụ phát triển công nghiệp thực phẩm.
4. Những dự án phát triển TTCN:
Những dự án ngành nghề TTCN cần tổ chức triển
khai thực hiện cho 5 năm (2006 - 2010), việc triển khai thực hiện sẽ tạo điều
kiện ngành nghề TTCN phát triển, nhanh bền vững, những dự án chủ yếu cần tập
trung:
- Dự án quy hoạch các vùng chuyên canh: Lúa đặc
sản, cây ăn trái, cây công nghiệp (lác, chuối, lục bình, tre…), nuôi trồng thủy
sản, cây màu …
- Dự án phát triển hệ thống cụm, tuyến công nghiệp
các huyện, thị.
- Dự án phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm,
bò sữa …
- Dự án phát triển các ngành nghề truyền thống
và làng nghề : Gốm, gạch, thủ công mỹ nghệ, chế biến lương thực - thực phẩm, nấm
rơm..
- Dự án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
- Dự án hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ,
thiết bị sản xuất.
- Dự án hỗ trợ xúc tiến thương mại, thương hiệu,
tư vấn, thông tin
- Dự án đầu tư hình thành Quỹ Khuyến công tỉnh.
5. Các giải pháp chủ yếu phát triển ngành nghề
TTCN:
5.1. Đẩy mạnh phát triển ngành nghề TTCN, nâng
cao tính cạnh tranh để thúc đẩy phát triển ngành nghề TTCN:
Tăng cường cụ thể hoá chính sách ưu đãi đầu tư đối
với phát triển ngành nghề TTCN, tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng về thuế, cấp
đất, cho thuê đất phục vụ sản xuất, vay vốn tín dụng, bảo lãnh tín dụng, xuất
khẩu trực tiếp, hỗ trợ các dịch vụ công, đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao công
nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
Khuyến khích các hình thức hợp tác, phân công sản
xuất, từng bước hình thành chuyên môn hoá trong sản xuất của ngành hàng.
Khuyến khích thành lập các Hiệp hội, Hội nghề
nghiệp: Chiếu thảm, xay xát lúa gạo, chế biến lương thực - thực phẩm, chế biến
thuỷ sản v.v.... và kiện toàn Hội Nghề gốm mỹ nghệ xuất khẩu để hỗ trợ nhau sản
xuất tiêu thụ sản phẩm và chống cạnh tranh phá giá hoặc hạ giá bán, cạnh tranh
độc quyền nguyên liệu, chất đốt...
Tiếp tục kiện toàn duy trì làng nghề hiện có, kết
hợp giải quyết các vấn đề môi trường, đổi mới công nghệ, thiết bị, bồi dưỡng
nghệ nhân, đào tạo thợ trẻ. Xây dựng phát triển làng nghề mới theo quy hoạch gắn
liền với quy hoạch phát triển CN - TTCN của từng huyện đi đôi với việc xây dựng
phong trào nông thôn mới để từng bước phát triển ngành nghề TTCN cho đến tận xã
và có những sản phẩm đặc trưng cho từng xã hoặc liên xã.
Hình thành các làng nghề gắn với sản xuất nông
nghiệp để có sự phân công và hợp tác trong sản xuất và hoàn thiện thị trường để
tiêu thụ nông sản.
5.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ngành
nghề TTCN và xúc tiến thương mại:
Tạo điều kiện cho các cơ sở ngành nghề TTCN được
thuận lợi mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm: Hỗ trợ các công tác quảng cáo,
triển lãm, đăng ký thương hiệu, xúc tiến thương mại, đầu tư, khuyến công để cho
ngành nghề vượt qua những trở ngại, khó khăn khi tiếp cận thị trường. Từng bước
tổ chức hội làng nghề và thi sản phẩm ngành nghề TTCN, xây dựng các tiêu chuẩn
giải thưởng, khuyến khích sáng tạo kiểu dáng mẫu mã, tăng cường xuất khẩu.
Định kỳ hàng năm có kế hoạch đào tạo, tập huấn
cho các ngành nghề TTCN, làng nghề, cán bộ quản lý ở các địa phương về Marketing
và công nghệ thông tin.
Khuyến khích cá nhân, cơ sở sản xuất, hiệp hội mở
các Website. Tăng cường hỗ trợ thông tin để quảng bá, giới thiệu sản phẩm ngành
nghề TTCN, tình hình giá cả thị trường và các vấn đề liên quan đến tiêu thụ sản
phẩm. Tăng cường mối liên kết giữa các tổ chức thông tin của ngành trong và
ngoài tỉnh trong lĩnh vực phát triển phát triển ngành nghề TTCN.
5.3. Giải pháp tài chính, tín dụng:
Cần phát triển quỹ tín dụng trong nông thôn để
có thể huy động được vốn nhàn rỗi trong nhân dân nhằm phát triển sản xuất TTCN.
Thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc
Quỹ Khuyến công để hỗ trợ phát triển ngành nghề TTCN. Tạo điều kiện cho các cơ
sở sản xuất TTCN được tiếp cận nguồn vay thuận lợi. Ngành ngân hàng đơn giản
hoá thủ tục vay, hạn chế việc hoạt động vay từ tín dụng bên ngoài gây nhiều khó
khăn phát triển ngành nghề TTCN.
Tăng cường vốn ngân sách Nhà nước thông qua hoạt
động khuyến công, xúc tiến thương mại và đầu tư để đào tạo, tư vấn, cung cấp thị
trường, quảng bá sản phẩm, tham gia học hỏi và xây dựng mô hình phát triển làng
nghề.
Khai thác vốn tự có của các doanh nghiệp, các cơ
sở sản xuất, hộ gia đình dưới nhiều hình thức sản xuất - kinh doanh dịch vụ.
Tranh thủ các nguồn vốn từ chương trình phát triển
kinh tế - xã hội Trung ương, vốn ODA, vốn các tổ chức phi Chính phủ, vốn đầu tư
trực tiếp của thân nhân Việt kiều vào phát triển ngành nghề TTCN và làng nghề .
5.4. Chính sách thuế:
Những cơ sở ngành nghề TTCN mới được thành lập
thời gian đầu có thể gặp nhiều khó khăn cần có miễn thuế thu nhập từ 3 - 5 năm
tuỳ theo loại sản phẩm và được miễn giảm 50% cho 5 năm kể từ khi có lãi.
Có chính sách miễn giảm thuế từ 2 - 3 năm đầu
cho việc đổi mới công nghệ và tạo ra sản phẩm mới. Từng bước tiến tới thực hiện
cách tính thuế VAT cho phù hợp với luật lệ ban hành, xoá bỏ các khoản phí, lệ
phí ngoài qui định pháp luật.
5.5. Chính sách đất đai:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ, cơ sở sản xuất
ngành nghề TTCN được thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để phát triển ngành
nghề TTCN. Miễn hoặc giảm thu thuế đất 2 - 3 năm đầu cho các cơ sở ngành nghề
TTCN mới, thành lập nằm ngoài điều kiện ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất và sử
dụng đất áp dụng trong luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Quy hoạch các cụm, tuyến công nghiệp ở huyện,
liên xã để đẩy mạnh phát triển ngành nghề TTCN hoặc di dời các cơ sở sản xuất dễ
gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư.
Quy hoạch vùng nguyên liệu một cách hợp lý nhằm ổn
định nguồn nguyên liệu cho phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
5.6. Khoa học và công nghệ:
Tăng cường công tác nghiên cứu cơ bản và ứng dụng
phục vụ ngành nghề TTCN theo hướng phát triển tiêu thụ sản phẩm mới, sử dụng
nguyên liệu mới, ứng dụng công nghệ mới, thay thế các khâu công nghệ lạc hậu, xử
lý môi trường. Chú ý vào những ngành nghề truyền thống, chế biến nông sản thực
phẩm ở các khâu ứng dụng công nghệ sinh học, chế biến và bảo quản, đóng gói vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Từng bước xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn,
định mức kinh tế - kỹ thuật và các tiêu chuẩn ngành nghề để hướng dẫn mở rộng và
quản lý chặt chẽ các dịch vụ nông thôn nhất là khâu giống.
Kết hợp đan xen giữa cổ truyền và hiện đại, thủ
công và cơ giới hoá sản xuất cho các sản phẩm ngành nghề TTCN bảo đảm được chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường sức khoẻ cộng đồng dân cư.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ sở ứng dụng
khoa học - công nghệ mới vào sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá, giảm
tiêu hao nguyên liệu, năng lượng đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của thị trường.
Hình thành Quỹ hỗ trợ khoa học và công nghệ để
giúp cho các cơ sở ngành nghề có điều kiện tiếp cận và chuyển giao khoa học và
công nghệ vào sản xuất, kể cả lĩnh vực đào tạo, quản lý chất lượng theo thông lệ
quốc tế.
5.7. Đào tạo:
Nâng cao năng lực đào tạo các cơ sở dạy nghề hiện
có, tăng cường cơ sở vật chất cho Trung tâm Dạy nghề huyện đủ sức đào tạo nhân
lực cho ngành nghề nông thôn và xuất khẩu lao động.
Kết hợp nhiều loại hình đào tạo để người lao động
nâng cao trình độ văn hoá, tiếp cận được công nghệ hiện đại, làm chủ được công
nghệ để vận hành và sử dụng thành thạo máy móc, thiết bị ở các cơ sở ngành nghề
TTCN. Chú ý đến việc đào tạo nghề cho thanh niên.
5.8. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ TTCN:
Mở tuyến vận tải hàng hoá đi vào các nơi sản xuất
ngành nghề TTCN, làng nghề, cụm CN - TTCN.
Xây dựng và phát triển điện 3 pha để phục vụ cho
các cơ sở sản xuất ngành nghề TTCN.
Xây dựng các cụm, trạm xử lý nước ngầm (giảm nồng
độ sắt, ni trat...) với quy mô vừa và nhỏ để phục vụ cho sản xuất ở các cụm CN
- TTCN.
Phần III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Công nghiệp chủ trì phối hợp với các ngành
có liên quan và Uỷ ban nhân dân huyện, thị cụ thể hoá nhiệm vụ kế hoạch hàng
năm về phát triển ngành nghề TTCN với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tích cực
nhất để tạo điều kiện cho phát triển ngành nghề TTCN có sự phát triển nhanh, ổn
định góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực CN - TTCN trên các lĩnh
vực quy hoạch, tạo vùng nguyên liệu, chế biến, khoa học - kỹ thuật, đào tạo, đất
đai, vốn cùng các cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong
nước và ngoài nước vào đầu tư và hợp tác sản xuất ngành nghề TTCN.
2. Các Sở, ngành có liên quan đến phát triển
ngành nghề TTCN, hướng dẫn triển khai và thực hiện các chính sách khuyến khích
ngành nghề TTCN trong phạm vi chức năng.
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng
đồng về giá trị truyền thống của sản phẩm TTCN, sưu tầm và biên soạn tư liệu về
phát triển ngành nghề TTCN trên cơ sở mối liên kết ngành TTCN, làng nghề và
ngành du lịch, tổ chức các chương trình du lịch làng nghề, ngành nghề TTCN.
Kiện toàn hệ thống quản lý ngành nghề TTCN, kiểm
tra để có sự điều chỉnh và đề xuất cơ chế chính sách, thu hút các nguồn vốn đầu
tư phát triển ngành nghề TTCN, nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ có
mối liên kết 4 nhà giữa nhà nước; nhà nông; nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, tổ
chức dạy và truyền nghề và bảo tồn nghề truyền thống như một di sản văn hoá của
cộng đồng.
3. Kinh phí xây dựng các Dự án sử dụng nguồn vốn
ngân sách được cân đối trong kế hoạch chi hàng năm, kinh phí thực hiện dự án được
nhà nước hỗ trợ một phần còn lại từ các nguồn khác.
Ngành nghề TTCN có một vị trí, vai trò quan trọng
trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn 2001 -2005 đã đạt
được kết quả khả quan đã góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông
thôn. Tuy nhiên, so với tiềm năng, lợi thế và yêu cầu phát triển, ngành nghề
TTCN chưa phát huy được hết vai trò, đời sống nông dân chưa cao. Vì vậy, trong
giai đoạn 2006-2010 nhằm tạo sự chuyển biến phát triển ngành nghề TTCN phát triển
cần phải có sự tổ chức thực hiện tốt các giải pháp, chủ yếu của các ngành, các
cấp chính quyền địa phương cùng sự quyết tâm của người dân mới tạo ra sự phát
triển đồng bộ và bền vững. TTCN Vĩnh Long giai đoạn 2006 - 2010 đòi hỏi phải có
sự nỗ lực của toàn ngành, có sự đầu tư lớn và bên cạnh đó phải có sự hỗ trợ của
nhà nước thì mới làm cho ngành có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng CNH - HĐH, thực hiện đạt mục tiêu CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn,
phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế./.