Quyết định 184/2006/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch quốc gia thực hiện công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 184/2006/QĐ-TTg
Ngày ban hành 10/08/2006
Ngày có hiệu lực 05/09/2006
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Nguyễn Tấn Dũng
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
*******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

Số: 184/2006/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày  10  tháng 08 năm 2006

 

QUYẾT ĐỊNH

CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 184/2006/QĐ-TTG NGÀY 10 THÁNG 8 NĂM 2006 PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH QUỐC GIA THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC STOCKHOLM VỀ CÁC CHẤT Ô NHIỄM HỮU CƠ KHÓ PHÂN HỦY

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Nghị định số 68/2005/NĐ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ về an toàn hoá chất;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường,

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (sau đây gọi tắt là Kế hoạch) với các nội dung chủ yếu sau đây:

1. Về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (Persistent Orgamc Polutants, viết tắt là POPs) và Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy:

a) Các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ là các hoá chất rất độc hại, tồn tại bền vững trong môi trường và rất khó phân huỷ, có khả năng phát tán rộng và tích tụ sinh học cao trong các mô của sinh vật, gây tác hại nghiêm trọng cho sức khoẻ con người (gây ra các bệnh về sinh sản, thần kinh, miễn dịch, ung thư, tổn thương đen,... ), đa dạng sinh học và môi trường sống.

Tại thời điểm hiện nay, Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (sau đây gọi tắt là Công ước Stockholm) quy định việc quản lý an toàn hoá chất, giảm thiểu và tiến tới tiêu huỷ hoàn toàn 12 hoá chất hoặc nhóm hoá chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ độc hại sau đây: Aldrin, Chlordane, Dieldrin, Endrin, Heptachlor, Hexachlorobenzene, Mirex, Toxaphene, DDT [1,l,l-trichloro-2,2-bis (4-chlorophenyl) ethane], PCB (Polychlorinated Biphenyls), Dioxins (polychlorinated dibenzo-p-dioxins) và Furans (Polychlorinated dibenzofurans). Chín chất đầu tiên do con người tạo ra để làm thuốc bảo vệ thực vật và chất diệt côn trung; nhóm chất thứ mười PCB được sử dụng trong dầu cách điện, truyền nhiệt; hai nhóm chất cuối cùng (Dioxins và Furans) là các hoá chất phát sinh không chủ định, thường do hoạt động sản xuất công nghiệp, sinh hoạt hoặc xử lý chất thải sinh ra.

Trong 12 chất hoặc nhóm chất trên, nước ta đã cấm sử dụng 9 loại thuốc bảo vệ thực vật là các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ và hạn chế việc nhập khẩu và sử dụng PCB. Vì vậy, để triển khai các cam kết trong Công ước Stockholm. Việt Nam phải thực hiện:

- Áp dụng các biện pháp, công nghệ tiên tiến để giảm thiểu sự hình thành và phát sinh không có chủ định các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ là Dioxin và Furans;

- Ngăn ngừa việc nhập khẩu và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật đã bị cấm sử dụng; tiêu hủy các kho thuốc bảo vệ thực vật là các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ còn tồn lưu; xử lý ô nhiễm các kho bãi, khu vực chôn lấp thuốc bảo vệ thực vật trước kia; tẩy độc các khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng do Dioxin từ chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam;

- Loại bỏ theo lộ trình phù hợp và tiêu hủy an toàn PCB và thiết bị chứa PCB đã bị thải bỏ.

b) Công ước Stockholm được các nước ký kết thực hiện nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ con người, đa dạng sinh học và môi trường sống trước những nguy cơ, rủi ro do các hoá chất rất độc hại là các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ gây ra. Công ước Stockholm quy định việc ngừng sản xuất, hạn chế sử dụng và tiến tới tiêu hủy hoàn toàn một số chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy do con người tạo ra, đồng thời thực hiện các biện pháp cần thiết để giảm thiểu liên tục sự phát sinh không chủ định các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy do hoạt động sản xuất công nghiệp, sinh hoạt hoặc xử lý chất thải sinh ra.

2. Mục tiêu của Kế hoạch:

a) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật, thể chế để quản lý an toàn hoá chất, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy;

b) Tăng cường năng lực về khoa học công nghệ, thông tin, tài chính để phòng ngừa, kiểm soát và xử lý an toàn đối với các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy;

c) Kiểm soát, xử lý và tiêu huỷ hoàn toàn các kho thuốc bảo vệ thực vật là các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy - những hoá chất rất độc hại đã bị loại bỏ, còn tồn lưu vào năm 2010;

d) Xử lý triệt để các khu vực ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật là các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và Dioxins từ chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam

đ) Giảm thiểu lượng phát thải PCB vào môi trường; loại bỏ việc sử dụng PCB trong các thiết bị, máy móc vào năm 2020 và tiêu huỷ an toàn PCB vào năm 2028;

e) Giảm thiểu liên tục lượng phát thải các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hình thành không chủ định (Dioxins và Furans).

3. Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện Kế hoạch:

a) Lấy phòng ngừa là chính, coi các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy là hiểm hoạ trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ con người, đa dạng sinh học và môi trường sống;

b) Việc quản lý an toàn, giảm thiểu và loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và triệt để;

c) Các nhiệm vụ của Kế hoạch phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với mục tiêu của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, đồng thời đáp ứng yêu cầu của Công ước Stockholm;

d) Việc thực hiện Kế hoạch phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện và có sự liên kết tham gia của các cấp, các ngành, cộng đồng và mọi người dân;

đ) Lấy khoa học, công nghệ làm nền tảng; phát huy nội lực kết hợp với sử dụng kinh nghiệm và sự giúp đỡ của quốc tế; áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch và thân thiện với môi trường để quản lý an toàn, giảm thiểu, xử lý có hiệu quả các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy.

4. Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Kế hoạch:

[...]