Quyết định 1772/QĐ-UBND năm 2017 phê duyệt Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ tỉnh An Giang năm 2018

Số hiệu 1772/QĐ-UBND
Ngày ban hành 12/06/2017
Ngày có hiệu lực 12/06/2017
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh An Giang
Người ký Lâm Quang Thi
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1772/QĐ-UBND

An Giang, ngày 12 tháng 6 năm 2017

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH AN GIANG NĂM 2018

CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

Căn cứ Luật Tổ chức Chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 27 tháng 6 năm 2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang giai đoạn 2012-2020 và tầm nhìn đến năm 2030;

Căn cứ Quyết định số 2532/QĐ-UBND ngày 05 tháng 12 năm 2013 của UBND tỉnh về ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 18-Ctr/TU ngày 28 tháng 02 năm 2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;

Theo nội dung hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ tại Công văn số 209/BKHCN-KHTH ngày 23 tháng 01 năm 2017 về hướng dẫn xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách khoa học và công nghệ năm 2018;

Xét đề nghị của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tại Tờ trình số 560/TTr-SKHCN ngày 05 tháng 6 năm 2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ tỉnh An Giang năm 2018.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ tỉnh An Giang năm 2018, với các nội dung cụ thể như sau:

A. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

I. Tình hình thực hiện cơ chế, chính sách về khoa học và công nghệ

1. Tình hình thực hiện cơ chế, chính sách về khoa học và công nghệ.

Năm 2016, tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 27 tháng 6 năm 2012 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Quyết định số 2163/QĐ-UBND ngày 29 tháng 11 năm 2012 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 2532/QĐ-UBND ngày 05/12/2013 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 18-CTr/TU ngày 28 tháng 02 năm 2013 của Tỉnh ủy về phát triển khoa học và công nghệ (viết tắt KH&CN) phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Hoạt động tổ chức hội đồng xác định danh mục, nội dung nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh đã hoàn thành theo đúng kế hoạch, đến ngày 31 tháng 12 năm 2016 cơ bản các đề tài, dự án cấp tỉnh được xét duyệt nội dung đạt 100%, đặc biệt tỉnh cũng đã phê duyệt 06 chương trình trọng điểm theo Quyết định số 2532/QĐ-UBND ngày 05 tháng 12 năm 2013 của UBND tỉnh An Giang và xây dựng Danh mục nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh năm 2016 - 2017 đúng hạn, góp phần đảm bảo quy trình quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh năm 2016 đúng tiến độ. Các đề tài, dự án được chọn mang tính cấp thiết cao, có khả năng áp dụng vào thực tế, tập trung vào các vấn đề trọng tâm của Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 27 tháng 6 năm 2012 và Chương trình hành động số 18-Ctr/TU ngày 28 tháng 02 năm 2013 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh.

Kết quả: Tỉnh đã triển khai 174 nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trong đó 82 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh, 92 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở. Qua đó, đã có nhiều mô hình ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ hiệu quả, tạo được mối liên kết giữa các nhà khoa học với nông dân cũng như với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Cụ thể như: Dự án Ứng dụng máy cấy lúa phục vụ sản xuất lúa giống tỉnh An Giang cho các kết quả tốt trong quá trình thực hiện như: Chi phí cấy giảm ít nhất 40% so với cấy lúa bằng tay (tính trên ha), lượng giống cấy bằng máy giảm ít nhất 25% so với cấy tay và sạ hàng, ruộng cấy máy có tỷ lệ mạ sống đạt ít nhất 95% và năng suất lúa không thấp hơn so với năng suất trung bình của địa phương. Dự án Xây dựng mô hình và tập huấn kỹ thuật trồng cây thanh long ruột đỏ ứng dụng công nghệ cao tại huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên kết hợp ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước và xử lý ra hoa nghịch vụ giúp người dân tăng năng suất đạt 45 tấn/ha ở năm thứ 3, giảm chí phí sản xuất và góp phần cho du lịch sinh thái huyện Tri Tôn và Tịnh Biên phát triển.

Các nhiệm vụ khoa học, phát triển các mô hình, công nghệ sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được đẩy mạnh; Các dự án được hỗ trợ kinh phí thực hiện từ nguồn sự nghiệp KH&CN đã và đang góp phần tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất theo hướng ổn định bền vững và nâng cao nguồn thu nhập cho người dân, trong đó nổi bật đã xây dựng quy trình phòng và trị bệnh cá lóc (Channa sp) và lươn từ giai đoạn ương giống đến nuôi thịt; Mô hình nuôi tôm càng xanh tăng vụ trên nền đất trồng lúa tại huyện Thoại Sơn; Mô hình vườn ươm cây giống rau quy mô công nghiệp tại huyện An Phú, Chợ Mới và thị xã Tân Châu; Ứng dụng máy cuốn rơm để thu gom rơm; Mô hình lai tạo và nuôi dưỡng bò lai hướng thịt.

Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ tỉnh An Giang đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm, dịch vụ địa phương. Sau khi được hỗ trợ, một số doanh nghiệp bước đầu đã khai thác tài sản trí tuệ hiệu quả như: Công ty Cổ phần dược phẩm Agimexpharm, Công ty TNHH dược phẩm Tín Kiến Lợi, Công ty TNHH TM-SX Hóa Nông An Giang, hay sáng chế của ông Lê Phước Lộc,

Về xác lập quyền sở hữu công nghiệp: Nhìn chung tổ chức, cá nhân đã quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, không chỉ là nhãn hiệu, đặc biệt bảo hộ sáng chế/giải pháp hữu ích. Qua hướng dẫn, cung cấp thông tin về xác lập quyền mà tổ chức, cá nhân tránh được tình trạng sử dụng dấu hiệu trùng lắp, tương tự với nhãn hiệu, kiểu dáng hay sử dụng sáng chế/giải pháp hữu ích của người khác để đăng ký; hạn chế được tình trạng tranh chấp và cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên địa bàn tỉnh.

Công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ đối với các thiết bị X quang y tế có nhiều chuyển biến, đa số cơ sở X quang y tế đã tiếp cận được quy định của pháp luật về quản lý an toàn bức xạ nhằm đảm bảo sức khỏe, an toàn cho người vận hành và nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về công nghệ và an toàn bức xạ được triển khai và phối hợp chặt chẽ, góp phần nâng cao an toàn việc sử dụng thiết bị X quang trong chẩn đoán bệnh.

Kết quả thực hiện các cuộc thanh tra chuyên ngành cho thấy tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường và chất lượng năm 2016 tăng nhiều so với năm 2015 (năm 2016: 29 vụ/164 cơ sở, năm 2015: 11 vụ/186 cơ sở). Các nội dung vi phạm phát hiện chủ yếu: về đo lường taximet xe taxi; tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng trong kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng; phương tiện đo nhóm 2 và an toàn bức xạ; tiêu chuẩn, chất lượng và nhãn hàng hóa trong kinh doanh thiết bị điện, điện tử, đồ chơi trẻ em và mũ bảo hiểm; kiểm định phương tiện đo nhóm 2 (cân, nhiệt kế, huyết áp kế, máy đo điện tim). Đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vàng, đây là lĩnh vực mới tổ chức thanh tra lần đầu, do đó cần tiếp tục duy trì công tác thanh tra, kiểm tra, đồng thời kết hợp chặt chẽ với công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật phù hợp để nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân trong việc sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này tại địa phương.

Thực hiện 10 cuộc kiểm tra thuộc lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Đối với hoạt động khảo sát chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, tuy mới đưa vào thực hiện trong năm 2016 nhưng rất hiệu quả, đã phát hiện được một số hàng hóa không đạt chất lượng mà doanh nghiệp đã công bố, báo cáo kịp thời cho các đơn vị quản lý chuyên ngành để có biện pháp quản lý hiệu quả, ngăn chặn lượng hàng hóa kém chất lượng lưu thông trên thị trường.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc của các đơn vị sự nghiệp đang được đầu tư đổi mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và sản xuất các sản phẩm mới phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Trong hoạt động đã có sự chủ động, kịp thời gắn kết và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị tư vấn và tổ chức, cá nhân có nhu cầu để thúc đẩy hoạt động hỗ trợ ứng dụng, đổi mới công nghệ và sản xuất thử nghiệm; phối hợp chặt chẽ với các Viện, trường trong hoạt động tư vấn, thẩm định nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Công tác xây dựng cơ chế chính sách về khoa học và công nghệ được xác định là nhiệm vụ trọng tâm được tập trung thực hiện; theo đó tỉnh đã ban hành 14 văn bản (năm 2016) và 07 văn bản (đến tháng 4/2017) về lĩnh vực khoa học và công nghệ (xem phụ lục 1).

Ngoài ra, năm 2016 và 06 tháng đầu năm 2017 tỉnh đã triển khai thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch như: Chương trình cải cách hành chính; Nâng cao hiệu quả công tác quản trị và hành chính công cấp tỉnh (chỉ số PAPI) tỉnh An Giang; Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, ...

Cử cán bộ công chức, viên chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn: 02 công chức học cao học, 01 công chức, 02 viên chức nghiên cứu sinh và khoảng 70 lượt công chức, viên chức tham gia các lớp đào tạo, tập huấn ngắn hạn.

Công tác tham mưu ban hành văn bản về chủ trương và chính sách của tỉnh về lĩnh vực khoa học và công nghệ được đẩy mạnh nhằm tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, trong đó có nhiều văn bản quan trọng đã tạo điều kiện cho hoạt động quản lý khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh phát triển; đồng thời tạo chính sách thông thoáng khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng mô hình công nghệ, đổi mới thiết bị và công nghệ, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và phát triển tài sản trí tuệ.

Công tác đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ công chức, viên chức ngành khoa học và công nghệ cũng được chú trọng và thực hiện kịp thời góp phần giúp cán bộ công chức, viên chức mở rộng kiến thức chuyên môn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội tại địa phương và của ngành khoa học và công nghệ.

II. Tình hình thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ

[...]