Quyết định 1343/QĐ-TTg năm 2023 phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 1343/QĐ-TTg
Ngày ban hành 14/11/2023
Ngày có hiệu lực 14/11/2023
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Minh Chính
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1343/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2023

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA PHÒNG THỦ DÂN SỰ ĐẾN NĂM 2030 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 27 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Phòng thủ dân sự ngày 20 tháng 6 năm 2023;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo với những nội dung chủ yếu sau:

I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH

1. Tình hình thế giới, khu vực

Hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng. Sự điều chỉnh chính sách, quan hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường, đặt các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng đang gặp nhiều trở ngại, thách thức. Tăng trưởng kinh tế thế giới, thương mại, đầu tư quốc tế đối mặt nhiều khó khăn, rủi ro; nợ công toàn cầu tăng, rủi ro tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Cạnh tranh kinh tế đã trở thành chiến tranh thương mại; sự tranh giành thị trường và các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao ngày càng quyết liệt. Những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc xung đột tại Ukraine và tại Dải Gaza đang gây ra nguy cơ suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc.

Biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt hơn, làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, các loại hình thiên tai như bão, lũ, sạt lở đất, ngập lụt, hạn hán… đã và đang tác động xấu đến hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường và sự an toàn của con người. Bên cạnh đó, những vấn đề mang tính toàn cầu như nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh nguy hiểm lây lan nhanh trên diện rộng tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động mạnh đến các quốc gia, dân tộc và đặt ra những thách thức lớn cho sự phát triển bền vững.

Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị, chiến lược ngày càng quan trọng. Tuy nhiên, khu vực này đang là nơi các nước lớn thử nghiệm chính sách gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng, tìm cách kiềm chế lẫn nhau. Đây cũng là nơi tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, cả truyền thống và phi truyền thống. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố tiếp diễn phức tạp; các điểm nóng về tranh chấp lãnh thổ vẫn tồn tại ở nhiều khu vực. Vai trò của luật pháp và các cơ chế quốc tế ngày càng được đề cao, nhưng một số nước vẫn đơn phương sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình diễn biến ngày càng phức tạp, nguy cơ dẫn đến thúc đẩy chạy đua vũ trang ngày càng gia tăng. Tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền trên Biển Đông đang nổi lên thành điểm nóng, thu hút sự chú ý của các nước trong và ngoài khu vực, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang, không loại trừ nguy cơ chiến tranh.

2. Tình hình trong nước

a) Chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng từng bước vững chắc, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD; uy tín, vị thế của đất nước không ngừng nâng cao; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được củng cố; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt được kết quả tích cực. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích lũy - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động, việc làm... tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô.

Phát triển vùng, liên kết vùng chuyển biến tích cực, hình thành nhiều vùng kinh tế lớn, quan trọng cho phát triển đất nước. Bước đầu hình thành các hành lang kinh tế trên địa bàn các vùng, liên vùng, nhất là các hành lang gắn với các đô thị lớn. Các vùng kinh tế trọng điểm, đô thị lớn tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế - xã hội, thu hút nhiều vốn đầu tư và đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu ngân sách, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hoàn thành trước thời hạn quy định và vượt mục tiêu đề ra; hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng lên.

Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm xây dựng, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, đô thị, thông tin và truyền thông, cùng nhiều công trình hạ tầng quan trọng trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình điện lưới quốc gia đã cơ bản nối đến các đảo lớn; các cảng biển, âu tàu phục vụ đánh bắt xa bờ đã được quan tâm đầu tư; hạ tầng giao thông đã có bước phát triển nhanh theo hướng đồng bộ, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các công trình có tính kết nối tạo diện mạo mới cho đất nước.

Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được củng cố ngày càng vững chắc, đã kết hợp có hiệu quả quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; công tác đối ngoại được mở rộng và đi vào chiều sâu; thiên tai, dịch bệnh được kiểm soát hiệu quả; đời sống của nhân dân cải thiện, niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới ngày càng được củng cố; sức mạnh tổng hợp quốc gia được tăng cường, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam được khẳng định và nâng cao trên trường quốc tế, khu vực, tạo cơ sở nền tảng, điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và công tác phòng thủ dân sự.

Tuy nhiên, đất nước cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Nguồn lực quốc gia còn hạn chế đã làm chậm các chương trình quốc gia nhằm nâng cao khả năng chống chịu, ứng phó với biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến nền kinh tế và các vùng dân cư. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số lĩnh vực, địa bàn còn tiềm ẩn phức tạp; cháy, nổ, sự cố, tai nạn diễn biến phức tạp, một số vụ làm chết nhiều người, thiệt hại lớn về vật chất, ảnh hưởng tiêu cực đến an toàn, an sinh xã hội, gây hoang mang dư luận. Ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn, làng nghề và một số lưu vực sông chậm được khắc phục, các nguồn ô nhiễm môi trường biển, hải đảo gia tăng; hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn chế. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra động lực và thời cơ để phát triển kinh tế nhưng cũng đặt ra những thách thức, rủi ro đối với một số lĩnh vực (trật tự, an toàn xã hội, lao động, việc làm...). Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số địa bàn chiến lược tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn.

Việt Nam nằm trên đường hàng hải, hàng không quốc tế, cửa ngõ ra vào khu vực Đông Nam Á, là cầu nối giữa vùng kinh tế biển và kinh tế lục địa ở châu Á nên có vị trí địa chính trị quan trọng. Trong bối cảnh hiện nay, với sự gia tăng căng thẳng trong quan hệ quốc tế, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cường quyền nước lớn, nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh dưới các hình thức và quy mô khác nhau đối với nước ta vẫn đang hiện hữu; cần chủ động các giải pháp để giảm thiểu thiệt hại cho nhân dân, cho nền kinh tế nếu chiến tranh xảy ra.

b) Đặc điểm địa hình, khí hậu, thủy văn

Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, có diện tích đất liền hơn 330 ngàn km2, đường biên giới trên đất liền dài hơn 5.000 km, tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào ở phía Tây và Campuchia ở phía Tây Nam, đi qua 25 tỉnh biên giới của Việt Nam và 21 tỉnh của các nước láng giềng. Địa hình chia thành các vùng: Rừng núi, trung du, đồng bằng và ven biển.

Vùng rừng núi có nhiều núi đá, hang động, trong đó nhiều hang động có thể tận dụng cải tạo thành công trình trú ẩn cho nhân dân khi có chiến tranh. Đây cũng là vùng có địa hình hiểm trở, giao thông chưa phát triển, đường độc đạo dễ bị chia cắt vào mùa mưa, gây khó khăn cho cơ động lực lượng, nhất là khi di chuyển, sơ tán, bảo đảm cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật cho khắc phục thảm họa, chiến tranh.

Trung du là vùng chuyển tiếp giữa vùng rừng núi và đồng bằng, có hệ thống đường xá tương đối phát triển, mật độ sông ngòi không lớn; địa hình thuận lợi cho việc xây dựng công trình phòng tránh, cơ động lực lượng, phân tán, sơ tán người và trang bị khi xảy ra thảm họa, chiến tranh. Tuy nhiên, địa hình trung du thường trống trải, khó khăn trong tổ chức ngụy trang, che dấu lực lượng, phương tiện; là nơi tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra sự cố, thảm họa, như sạt lở đất, cháy rừng, sập đổ hầm lò, sạt lở công trình giao thông...

Vùng đồng bằng và ven biển hình thành hai đồng bằng lớn ở Bắc Bộ và Nam Bộ, còn lại trải dài theo bờ biển. Vùng đồng bằng có mật độ dân cư cao, đời sống phát triển, tập trung nhiều đô thị, thành phố lớn và trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, có nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp lớn. Hệ thống giao thông phát triển cả đường bộ, đường không, đường sông, đường ven biển, thuận tiện cho cơ động, triển khai lực lượng, phương tiện ứng cứu. Đây cũng là khu vực có mật độ cư dân đông, mức độ tập trung vật chất rất lớn, tiềm ẩn nhiều rủi ro về thiên tai cũng như các sự cố nghiêm trọng trong hoạt động sản xuất.

Vùng biển Việt Nam rộng hơn 1 triệu km2, với hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Các đảo, cụm đảo hình thành từng tuyến từ ngoài vào trong tạo thuận lợi cho tổ chức các điểm tránh, trú cho tàu thuyền trên biển. Biển có tài nguyên thiên nhiên phong phú, là địa bàn quan trọng để phát triển kinh tế đất nước, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về thiên tai, thảm họa ô nhiễm môi trường.

[...]