Thông báo 156/TB-VPCP về kết luận của Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia tại Hội nghị tổng kết công tác phòng thủ dân sự năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023 do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 156/TB-VPCP |
Ngày ban hành | 27/04/2023 |
Ngày có hiệu lực | 27/04/2023 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Trần Văn Sơn |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 156/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2023 |
Ngày 10 tháng 3 năm 2023, Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia tổ chức Hội nghị tổng kết công tác phòng thủ dân sự năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023 do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì; tham dự Hội nghị có các đồng chí: Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Phó Trưởng ban Chỉ đạo; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo.
Sau khi nghe Văn Phòng Ban Chỉ đạo báo cáo tổng kết công tác phòng thủ dân sự năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023 và ý kiến phát biểu của các đại biểu tham dự Hội nghị, Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia đánh giá cao, biểu dương Văn phòng Ban Chỉ đạo đã làm tốt công tác chuẩn bị để Phiên họp thứ nhất của Ban Chỉ đạo đạt kết quả tốt và thống nhất kết luận như sau:
1. Tình hình
Thời gian qua, tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến phức tạp; đại dịch Covid-19 gây hậu quả nghiêm trọng; biến đổi khí hậu, sự cố, thiên tai diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều khó khăn do tác động từ bên ngoài đã ảnh hưởng tiêu cực gây thiệt hại lớn về người, tài sản; kinh tế - xã hội trong nước gặp nhiều khó khăn; phát sinh nhiều thách thức đối với nhiệm vụ phòng thủ dân sự. Theo thống kê từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 đến ngày 28 tháng 02 năm 2023: Thiên tai, sự cố đã xảy ra 7.942 vụ, làm chết 1.339 người; mất tích 200 người, bị thương 513 người; chìm, cháy, hỏng 840 phương tiện; cháy 1.428 nhà xưởng; 761 ha rừng và thảm thực vật; sập, hư hỏng 7.638 nhà, hư hại 190.857 ha lúa và hoa màu, chết 91.205 gia súc gia cầm; thiệt hại do thiên tai khoảng 5.065 tỷ đồng, gấp 2,8 lần so cùng kỳ năm 2021.
2. Công tác phòng thủ dân sự
Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia, cơ quan phòng thủ dân sự, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn các cấp từ Trung ương tới địa phương đã theo dõi sát tình hình, tập trung chỉ đạo quyết liệt, trách nhiệm, triển khai các biện pháp phòng thủ dân sự, ứng phó, khắc phục các thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh kịp thời.
Các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng quân đội, công an, các lực lượng cứu hộ, cứu nạn chuyên trách, kiêm nhiệm đã phối hợp triển khai kịp thời, hiệu quả công tác ứng phó, khắc phục sự cố, thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu nạn. Đã huy động hàng trăm nghìn lượt cán bộ, chiến sỹ, gần 22.000 lượt phương tiện tham gia ứng phó sự cố, thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu nạn; xử lý hiệu quả 5.378 vụ, cứu được 5.385 người và 342 phương tiện; hướng dẫn hơn 480.000 lượt tàu thuyền với gần 2,3 triệu lượt người di chuyển tránh trú bão, áp thấp nhiệt đới, tổ chức di dời trên 32.000 hộ dân ra khỏi các khu vực nguy hiểm. Qua đó đã góp phần giảm thiểu thiệt hại, nhất là thiệt hại về người, không để người dân bị thiếu đói, khát, bùng phát dịch bệnh, đồng thời nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống sau thiên tai, dịch bệnh.
Biểu dương và đánh giá cao sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo các địa phương, chủ động của Nhân dân, hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của các tổ chức chính trị, xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế trong ứng phó, khắc phục sự cố, thiên tai, dịch bệnh và tìm kiếm cứu nạn.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác phòng thủ dân sự, ứng phó sự cố, thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu nạn vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
- Việc kiện toàn, bổ sung chức năng, nhiệm vụ Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự - phòng, chống thiên tai và tìm kiếm, cứu nạn có địa phương còn chậm. Lực lượng làm công tác tham mưu phòng thủ dân sự phần lớn kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu.
- Cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ hoạt động phòng thủ dân sự, phòng chống, thiên tai, tìm kiếm cứu nạn đã được biên chế, trang bị cho các đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ; tuy nhiên đối với một số địa bàn, một số nhiệm vụ còn chưa đáp ứng được yêu cầu; xã hội hóa nguồn lực đầu tư cho phòng thủ dân sự còn hạn chế.
- Công tác dự báo, cảnh báo còn hạn chế; thông tin, tuyên truyền ở một số địa phương chưa đến được người dân, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biển đảo xa bờ.
- Phương án ứng phó với từng loại thảm họa, sự cố có nơi xây dựng chưa sát với điều kiện, tình hình thực tế của địa bàn; phương châm "bốn tại chỗ", “ba sẵn sàng” nhiều nơi còn tính hình thức; công tác huấn luyện, diễn tập có nội dung chưa sát thực tiễn với từng vùng miền.
- Chưa có quy định chặt chẽ để đảm bảo kết hợp thực hiện lồng ghép công trình phòng thủ dân sự với phát triển kinh tế - xã hội địa phương, khu vực.
- Thiệt hại về vật chất do sự cố, thiên tai, dịch bệnh còn rất lớn, nhất là cơ sở hạ tầng.
Dự báo, tình hình biến đổi khí hậu, diễn biến thiên tai ngày càng cực đoan, bất thường; nhiều loại dịch bệnh, trong đó có những dịch bệnh mới xuất hiện như đậu mùa khỉ và dịch bệnh Covid-19 còn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát, chuyển hóa nhanh sang các dạng khác nhau, nhiều thách thức đang đặt ra cho công tác phòng thủ dân sự, phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
1. Về quan điểm chỉ đạo
a) Quán triệt, triển khai có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến công tác phòng thủ dân sự, trọng tâm là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 01 tháng 3 năm 2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị đảm bảo thực chất, hiệu quả.
b) Phát huy vai trò, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và Nhân dân trong phòng thủ dân sự, trong đó hoạt động phòng thủ dân sự phải dựa vào dân, dân làm gốc; lực lượng nòng cốt là: Dân quân tự vệ, dân phòng, Công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách, kiêm nhiệm của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các bộ, ngành, địa phương. Lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia.
c) Phải chủ động, chuẩn bị từ sớm, từ xa, từ trước khi xảy ra xung đột, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; thực hiện tốt phương châm “bốn tại chỗ” kết hợp với chi viện, hỗ trợ của Trung ương, các địa phương và cộng đồng quốc tế.
d) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng thủ dân sự trên nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
đ) Chiến lược Phòng thủ dân sự phải gắn với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, vùng, miền, ngành, địa phương; công tác xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm phương tiện, trang thiết bị cho thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự phải trú trọng tính lưỡng dụng, có thể sử dụng cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương, khu vực; đồng thời sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ phòng thủ dân sự khi có tình huống.
2. Về các giải pháp trọng tâm
a) Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật Phòng thủ dân sự; xây dựng các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Phòng thủ dân sự; xây dựng Chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự, trong đó lấy phòng ngừa là chính, xác định nhiệm vụ phòng thủ dân sự không chỉ của hệ thống chính trị, cấp ủy, chính quyền các cấp mà phải dựa vào người dân, doanh nghiệp; nâng cao nhận thức cộng đồng về hoạt động phòng thủ dân sự, phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh.