Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Nghị quyết 22-NQ/TW năm 2022 về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo do Ban Chấp hành Trung ương ban hành

Số hiệu 22-NQ/TW
Ngày ban hành 30/08/2022
Ngày có hiệu lực 30/08/2022
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Ban Chấp hành Trung ương
Người ký Nguyễn Phú Trọng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 22-NQ/TW

Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2022

 

NGHỊ QUYẾT

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ PHÒNG THỦ DÂN SỰ ĐẾN NĂM 2030 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO

I- TÌNH HÌNH

Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia công tác phòng thủ dân sự và đạt được những kết quả tích cực. Công tác chỉ đạo, điều hành và phối hợp giữa các lực lượng trong thực hiện phòng thủ dân sự bước đầu đáp ứng được yêu cầu; hệ thống công trình phòng thủ dân sự từng bước được quan tâm đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch của các bộ, ngành, địa phương; lực lượng chuyên trách phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn đã được xây dựng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ; giảm đáng kể thiệt hại về người và tài sản do các thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh gây ra.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng thủ dân sự còn những hạn chế, bất cập như: Hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện phổ cập kiến thức về phòng thủ dân sự chưa cao; nhận thức về phòng thủ dân sự chưa thống nhất; pháp luật về công tác phòng thủ dân sự chưa đầy đủ; cơ chế quản lý, chỉ đạo chưa tập trung; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương có nội dung chưa đồng bộ; công tác dự báo, cảnh báo thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh... còn bị động; đầu tư ngân sách, bảo đảm trang bị, vật tư cho phòng thủ dân sự còn phân tán và chưa được quan tâm đúng mức; việc ứng dụng khoa học công nghệ chưa tạo được đột phá trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh...; chưa thực hiện tốt phương châm “bốn tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ).

II- QUAN ĐIỂM

1. Phòng thủ dân sự là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy vai trò, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và nhân dân. Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân; hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, ổn định đời sống nhân dân, đưa hoạt động kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trở lại bình thường.

2. Phòng thủ dân sự được thống nhất tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Người đứng đầu cấp ủy là người lãnh đạo, chỉ đạo cao nhất, toàn diện trong xây dựng chiến lược, phương án, kế hoạch hoạt động phòng thủ dân sự; người đứng đầu bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, cơ quan chức năng và tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, triển khai tổ chức thực hiện ở cấp mình; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, sự phối hợp của các cấp, các ngành, địa phương, các lực lượng nhằm xử lý mọi tình huống kịp thời và hiệu quả.

3. Phòng thủ dân sự phải chủ động, chuẩn bị từ sớm, từ xa, từ trước khi xảy ra chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các lực lượng và toàn dân để phòng ngừa chủ động, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả; thực hiện tốt phương châm “bốn tại chỗ” kết hợp với chi viện, hỗ trợ của Trung ương, các địa phương khác và cộng đồng quốc tế.

4. Hoạt động phòng thủ dân sự phải dựa vào dân, dân là gốc. Lực lượng nòng cốt là: Dân quân tự vệ, dân phòng; công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách hoặc kiêm nhiệm của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các bộ, ngành, địa phương. Lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia.

5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng thủ dân sự trên nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thể chế chính trị; tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

III- MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn dân về phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân, góp phần quan trọng vào ổn định đời sống, phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

2. Mục tiêu cụ thể

2.1. Đến năm 2025

- Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất hành động, năng lực và kỹ năng ứng phó, khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh cho các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn dân; lồng ghép kiến thức phòng thủ dân sự vào chương trình môn học giáo dục quốc phòng và an ninh. Xây dựng Luật Phòng thủ dân sự và các văn bản pháp luật liên quan, trong đó chú trọng bổ sung cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chủ trương, chính sách trưng thu, trưng dụng, huy động lực lượng, phương tiện, vật chất cho nhiệm vụ phòng thủ dân sự, đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm...; tập trung xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược phòng thủ dân sự.

- Kiện toàn tổ chức, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của ban chỉ đạo, cơ quan thường trực ban chỉ đạo, cơ quan chuyên trách giúp việc ban chỉ đạo phòng thủ dân sự từ Trung ương đến địa phương và các cơ quan, đơn vị, lực lượng, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; khắc phục tình trạng chồng chéo trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, dàn trải trong đầu tư nguồn lực, bố trí nhân lực, bảo đảm phù hợp với điều kiện đất nước.

- Tổ chức rà soát quy hoạch, xây dựng phương án, kế hoạch phòng, thủ dân sự từ Trung ương đến địa phương phù hợp với đặc điểm vùng, miền, lĩnh vực bảo đảm khả thi; xây dựng cơ chế vận hành hoạt động phòng thủ dân sự chặt chẽ, phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng và tương ứng với từng điều kiện, tình huống cụ thể.

2.2. Đến năm 2030 và những năm tiếp theo

- Tiếp tục nâng cao nhận thức, kỹ năng phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh cho cộng đồng; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn cho lực lượng chuyên trách, kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự các cấp.

- Tổ chức triển khai thực hiện chương trình, đề án, dự án, trọng điểm về phòng thủ dân sự quốc gia; thống kê, quản lý, xây dựng phương án, kế hoạch khai thác sử dụng các công trình ngầm, công trình dân sinh, công trình phòng thủ dân sự kết hợp phòng thủ khu vực, tỉnh, thành phố vào phục vụ công tác luyện tập, diễn tập và thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự.

- Đầu tư hoàn thiện trang, thiết bị cho lực lượng chuyên trách đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, kết hợp với nâng cao năng lực cho các lực lượng, bảo đảm thực hiện tốt phương châm “bốn tại chỗ”. Hoàn thiện và áp dụng bộ tiêu chí về năng lực phòng ngừa thảm họa chiến tranh đối với các công trình, chương trình phát triển kinh tế - xã hội lớn, trọng điểm...

IV- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và tham gia của toàn dân trong phòng thủ dân sự

- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể các cấp trong thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự. Xác định phòng thủ dân sự là nhiệm vụ chính trị trọng yếu, thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là người đứng đầu; là trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

- Đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng thủ dân sự. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ và phát huy hiệu quả các nguồn lực, chuẩn bị lực lượng, vật tư, phương tiện để thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức, cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác phòng thủ dân sự. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện các vấn đề bất cập trong cơ chế, chính sách, tổ chức thực hiện công tác phòng thủ dân sự.

- Rà soát, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, cơ chế phối hợp liên ngành bảo đảm tinh, gọn, thống nhất, đồng bộ, kịp thời và hiệu quả. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng thủ dân sự nâng cao hiệu quả công tác, bảo đảm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và chuyên sâu theo các lĩnh vực, ngành.

[...]