Quyết định 13/2001/QĐ-TTg ban hành Chương trình cải cách hành chính của Chính phủ năm 2001 do Thủ Tướng Chính Phủ ban hành
Số hiệu | 13/2001/QĐ-TTg |
Ngày ban hành | 18/01/2001 |
Ngày có hiệu lực | 18/01/2001 |
Loại văn bản | Quyết định |
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Người ký | Phan Văn Khải |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 13/2001/QĐ-TTg |
Hà Nội, ngày 18 tháng 1 năm 2001 |
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2000 Số
19/2000/NQ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2000,
Xét đề nghị của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình cải cách hành chính của Chính phủ năm 2001.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện Chương trình này.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ NĂM 2001
(Ban hành kèm theo Quyết định số 13/2001/QĐ-TTg ngày 18/1/2001 của Thủ tướng
Chính phủ)
Năm 2000, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (Khóa VIII) và Quyết định số 207/1999/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, công cuộc cải cách hành chính đã được triển khai tích cực hơn và đạt được một số kết quả đáng kể. Kết quả rõ nét là những cải cách về thể chế kinh tế, nổi bật là việc ban hành và tổ chức thực hiện Luật Doanh nghiệp, đơn giản hóa thủ tục hành chính, xóa bỏ nhiều loại giấy phép không cần thiết, tháo gỡ vướng mắc cản trở sản xuất kinh doanh và công việc làm ăn của dân. Đã sắp xếp lại một số cơ quan thuộc Chính phủ cùng nhiều cơ quan tư vấn, phối hợp liên ngành. Việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức dần dần đi vào nề nếp, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng hơn. Đợt rà soát chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và biên chế của các Bộ, ngành Trung ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo kế hoạch của Chính phủ đã cho thấy rõ yêu cầu và khả năng điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương trong tình hình mới, phát hiện nhiều chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, từ đó định ra phương án sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tuy nhiên, việc triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính còn chậm, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức chậm chuyển biến, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ chậm được khắc phục, kỷ luật hành chính không nghiêm, tình trạng làm việc quan liêu, tùy tiện, thụ động trong các cơ quan nhà nước vẫn diễn ra phổ biến.
Năm 2001 là năm diễn ra Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Đại hội sẽ có những quyết định quan trọng về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng. Quốc hội sẽ thông qua việc sửa đổi Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Vì vậy, cả hệ thống hành chính phải chuẩn bị khẩn trương và tích cực, đóng góp có hiệu quả vào việc sửa đổi Hiến pháp và các Luật về tổ chức nhà nước, tổ chức triển khai các quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính. Bên cạnh việc tiếp tục giải quyết có hiệu quả về khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, cần tập trung vào những nhiệm vụ chính và cấp bách về cải cách hành chính trong năm 2001 khắc phục cho được những khuyết điểm trong sự chỉ đạo, điều hành năm 2000 mà Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố đã kiểm điểm:
Từng Bộ, ngành Trung ương trong phạm vi thẩm quyền của mình thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy bên trong và tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18 tháng 10 năm 2000 của Chính phủ và theo Đề án thực hiện Quyết định số 207/1999/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 1999 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc điều chỉnh tổ chức Sở, Phòng, Ban khi Nghị định của Chính phủ về cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện được ban hành và trong phạm vi thẩm quyền của mình quyết định sửa đổi, khắc phục ngay những chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trực thuộc.
Hiến pháp và các Luật về tổ chức nhà nước cần thể hiện rõ sự thay đổi, chuyển đổi chức năng của Nhà nước từ quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế quản lý mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Hiến pháp 1992 mới là bước mở đầu). Chức năng quản lý nhà nước được thể hiện ở các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; các quyền này được xác định rành mạch, không lẫn lộn và quan hệ chặt chẽ với nhau theo những nguyên tắc, thể chế rõ ràng.
- Hiến pháp và các Luật phải thể hiện tư duy, quan điểm mới về phân cấp, phân quyền trong quản lý, định rõ chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể của từng cấp hành chính, từng cơ quan nhà nước trong quan hệ với dân, với doanh nghiệp và trong nội bộ hệ thống quản lý hành chính. Có như vậy, mới tạo được nguồn lực, động lực mới từ chủ thể quản lý kinh tế - xã hội là bộ máy nhà nước ở mỗi cấp; từ các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và tổ chức dịch vụ công ở Trung ương, địa phương và cơ sở.
- Hiến pháp sửa đổi và các Luật sửa đổi lần này phải tiến thêm một bước về phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân xây dựng nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp phù hợp với yêu cầu và điều kiện của từng cấp từ Trung ương đến xã, phường.
- Nhiệm vụ cải cách bộ máy nhà nước một cách đồng bộ, cơ bản được ghi nhận rõ trong Hiến pháp, các Luật về tổ chức nhà nước để bảo đảm yêu cầu pháp lý của quá trình cải cách.
- Có cơ chế thích hợp giữa bầu và bổ nhiệm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện để thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ.
- Sơ kết, rút kinh nghiệm việc thí điểm khoán biên chế và chi phí hành chính để mở rộng việc áp dụng trong các cơ quan hành chính.
- Có cơ chế phù hợp cho các loại hình đơn vị sự nghiệp: Trường đại học, viện nghiên cứu, bệnh viện, nhằm phát huy quyền chủ động của đơn vị, làm rõ vai trò quản lý nhà nước đối với đơn vị, góp phần tích cực thực hiện từng bước xã hội hóa.