Pháp lệnh Tài nguyên khoáng sản năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành

Số hiệu 22-LCT/HĐNN8
Ngày ban hành 28/07/1989
Ngày có hiệu lực 07/08/1989
Loại văn bản Pháp lệnh
Cơ quan ban hành Hội đồng Nhà nước
Người ký Võ Chí Công
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 22-LCT/HĐNN8

Hà Nội, ngày 28 tháng 7 năm 1989

 

PHÁP LỆNH

CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC SỐ 22-LCT/HĐNN8 NGÀY 28/07/1989 VỀ TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN

Tài nguyên khoáng sản là tài sản quốc gia vô cùng quý giá phải được bảo vệ, sử dụng hợp lý nhằm bảo đảm nhu cầu nguyên liệu khoáng trước mắt và lâu dài của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội;
Căn cứ vào Điều 19, Điều 36 và Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này quy định việc quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản trong các lĩnh vực điều tra địa chất, khai thác mỏ và bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Trong Pháp lệnh này các thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1- "Tài nguyên khoáng sản" là những vật chất tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí còn trong lòng đất, kể cả ở bãi thải của công nghiệp mỏ, hiện tại hoặc sau này có thể khai thác, sử dụng.

2- "Mỏ" hoặc "mỏ khoáng sản" là tích tụ tài nguyên khoáng sản có số lượng và chất lượng khoáng sản đạt chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật khai thác mỏ.

3- "Điều tra địa chất" là những hoạt động nghiên cứu địa chất lòng đất và tìm kiếm, thăm dò tài nguyên khoáng sản.

4- "Khai thác mỏ" là những hoạt động để lấy tài nguyên khoáng sản ở mỏ nhằm sản xuất nguyên liệu khoáng, nhiên liệu khoáng, kim loại tự sinh, nước dưới đất, nước khoáng, nước nóng (gọi chung là nguyên liệu khoáng) cho các nhu cầu sử dụng khác nhau.

5- "Khu vực khai thác mỏ" là một phần hoặc toàn bộ mỏ khoáng sản có ranh giới theo bề mặt và theo chiều sâu được xác định trong quyết định giao khu vực khai thác mỏ hoặc giấy phép khai thác tài nguyên khoáng sản.

6- "Tài nguyên khoáng sản chưa khai thác" là tài nguyên khoáng sản chưa được điều tra địa chất hoặc đã được điều tra địa chất mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa cho phép khai thác theo quy định của Pháp lệnh này.

Điều 2

Toàn bộ tài nguyên khoáng sản ở đất liền, thềm lục địa, các hải đảo và vùng biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam tạo thành vốn tài nguyên khoáng sản thống nhất của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý.

Điều 3

Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào việc điều tra địa chất, khai thác mỏ, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, trừ những tài nguyên khoáng sản và khu vực có quy định khác.

Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vốn, kỹ thuật vào công tác điều tra địa chất, khai thác mỏ, chế biến nguyên liệu khoáng ở Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Pháp lệnh này.

Điều 4

Tổ chức, cá nhân đầu tư tìm kiếm, thăm dò tài nguyên khoáng sản nếu có kết quả thì được ưu tiên đầu tư khai thác mỏ.

Nhà nước bảo đảm cho tổ chức, cá nhân khai thác mỏ được hưởng những quyền lợi hợp pháp ở khu vực khai thác mỏ được giao, kể cả quyền liên doanh thăm dò, khai thác, tiêu thụ sản phẩm, thừa kế quyền khai thác, chuyển, nhượng, bán các công trình đã đầu tư xây dựng ở khu vực khai thác mỏ theo quy định của pháp luật.

Điều 5

Tổ chức, cá nhân điều tra địa chất, khai thác mỏ có nghĩa vụ thực hiện chế độ quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, môi trường và tài nguyên khác, bảo đảm an toàn về mỏ; nộp thuế và lệ phí theo quy định của pháp luật.

Điều 6

Nghiêm cấm tiến hành điều tra địa chất, khai thác tài nguyên khoáng sản, sử dụng khu vực lòng đất có tài nguyên khoáng sản khi chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Pháp lệnh này.

Điều 7

Quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản bao gồm:

1- Lập quy hoạch và kế hoạch công tác điều tra địa chất, khai thác mỏ và bảo vệ tài nguyên khoáng sản;

[...]