Điều 1.
Nghị quyết này quy định việc giải quyết đối với một số
trường hợp cụ thể sau đây:
1. Nhà đất mà chủ sở hữu tuy thuộc
diện thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết
số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khoá XI về nhà đất
do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7
năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 23/2003/QH11) nhưng đến ngày Nghị
quyết này có hiệu lực thi hành, cơ quan nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa
bố trí sử dụng nhà đất đó;
2. Nhà đất mà Nhà nước đã có văn
bản quản lý nhưng thực tế chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng;
3. Nhà đất mà Nhà nước đã trưng
mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần cho chủ sở hữu;
4. Nhà đất mà Nhà nước đã trưng
dụng;
5. Diện tích nhà đất mà Nhà nước
đã để lại khi thực hiện chính sách cải tạo nhà đất cho thuê và chính sách quản
lý nhà đất của tổ chức, cá nhân.
Điều 2.
Đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử
dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải
tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 nhưng không quy định tại
Nghị quyết này thì thực hiện theo quy định tại Điều 1 và Điều
2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11.
Điều 3.
Trong Nghị quyết này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như
sau:
1. Các văn bản quản lý được áp dụng
khi giải quyết các trường hợp quy định tại Nghị quyết này bao gồm quyết định,
thông báo, công văn, văn bản kê biên, kiểm kê, danh sách kiểm kê và các giấy tờ
khác liên quan đến việc quản lý, bố trí sử dụng nhà đất của Uỷ ban hành chính,
Uỷ ban quân quản, Uỷ ban nhân dân cách mạng, Uỷ ban nhân dân, cơ quan quản lý
nhà nước các cấp, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức xã hội.
2. Nhà đất quy định tại Nghị quyết
này bao gồm nhà ở kể cả khuôn viên (nếu có) và các loại nhà khác.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 10.
Đối với những trường hợp Nhà nước đã quản lý, bố trí sử
dụng nhà đất theo các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị
quyết số 23/2003/QH11 đến ngày Nghị quyết này
có hiệu lực thi hành, chủ sở hữu chưa có chỗ ở hoặc có chỗ ở nhưng diện tích
bình quân trong hộ gia đình thấp hơn hoặc bằng 6m2/người thì Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh bố trí để họ được thuê nhà ở hoặc được mua nhà ở trả góp.
Điều 11.
Nguồn kinh phí để thực hiện Nghị quyết này được quy định như
sau:
1. Ngân sách trung ương thanh
toán đối với trường hợp nhà đất đang do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp của trung ương
quản lý, sử dụng hoặc nhà đất đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do các cơ quan của trung ương quản
lý, sử dụng;
2. Ngân sách địa phương thanh
toán đối với trường hợp nhà đất đang do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp của địa phương
quản lý, sử dụng hoặc nhà đất đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do các cơ quan của địa phương quản
lý, sử dụng hoặc nhà đất mà Nhà nước đã bố trí cho người khác sử dụng ổn định
hoặc đã chuyển quyền sở hữu cho người khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp ngân sách địa phương
quy định tại khoản này không đủ để thanh toán thì Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh phải xác định cụ thể số kinh phí để đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ;
3. Chủ đầu tư các dự án thực hiện
thanh toán đối với các trường hợp nhà đất phải giải tỏa để sử dụng vào mục đích
phát triển kinh tế hoặc chỉnh trang đô thị;
4. Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế thực hiện thanh toán đối với trường hợp nhà đất
mà Nhà nước đã trưng mua và nhà ở thuộc diện được giao lại nhưng hiện do các tổ
chức này quản lý, sử dụng.
Trong trường hợp tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp quy định tại khoản này không đủ kinh phí để thanh
toán thì phải lập báo cáo cụ thể số kinh phí để đề nghị ngân sách trung ương hỗ
trợ nếu là tổ chức của trung ương, đề nghị ngân sách địa phương hỗ trợ nếu là tổ
chức của địa phương;
5. Bộ Xây dựng tổng hợp nhu cầu
kinh phí thanh toán quy định tại Nghị quyết này để Chính phủ trình
Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp phân bổ ngân sách hàng năm của Quốc hội.
Điều 12.
Hồ sơ đề nghị nhận lại nhà ở hoặc nhận tiền thanh toán
được quy định như
sau:
1. Người thuộc diện được giao lại
nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết này phải có đơn đề nghị giao lại
nhà ở kèm theo bản sao có công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân
dân cấp có thẩm quyền đối với giấy tờ gốc về nhà ở thuộc diện được giao lại và
giấy tờ chứng minh Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn nhà ở của mình;
2. Người thuộc diện được thanh
toán tiền quy định tại Điều 6 của Nghị quyết này phải có đơn đề nghị thanh toán
kèm theo bản sao có công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp
có thẩm quyền đối với giấy tờ chứng minh Nhà nước đã trưng mua nhà đất nhưng
chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần.
Người có nhà ở thuộc diện được
giao lại nhưng nhà ở đó thuộc diện quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này thì
hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này được chuyển sang để áp dụng cho việc thanh
toán tiền theo quy định tại Điều 14 của Nghị quyết này.
Điều 13.
Trình
tự, thủ tục giao lại nhà ở đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 7 của
Nghị quyết này được thực hiện như sau:
1. Người thuộc diện được giao lại
nhà ở nộp hồ sơ đề nghị giao lại nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 12 của Nghị
quyết này tại cơ quan quản lý nhà thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (sau
đây gọi chung là cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh). Cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh có
trách nhiệm kiểm tra hồ sơ đề nghị giao lại nhà ở, hiện trạng nhà ở thuộc diện
được giao lại và điều kiện được giao lại quy định tại Nghị quyết này trong thời
hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị giao lại nhà ở;
2. Trên cơ sở kết quả kiểm tra hồ
sơ, hiện trạng nhà ở với sự thống nhất giữa các bên có liên quan về kết quả kiểm
tra đó, cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra
quyết định giao lại nhà ở. Trường hợp có đủ điều kiện giao lại thì Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giao lại nhà ở trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được tờ trình của cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh.
Trong trường hợp không đủ điều
kiện để giao lại nhà ở thì
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải có văn bản trả lời để đương sự biết rõ lý do;
3. Cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh
có trách nhiệm tổ chức bàn giao nhà ở cho người thuộc diện được giao lại trong
thời hạn 60 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định
giao lại nhà ở. Trong trường hợp người nhận lại nhà ở là các đồng thừa kế thì
trong biên bản bàn giao nhà ở phải có chữ ký của các đồng thừa kế đó, trừ trường
hợp các đồng thừa kế có văn bản thỏa thuận cử đại diện để nhận bàn giao nhà ở
đó. Trước khi bàn giao nhà ở, cơ quan bàn giao phải thu hồi bản gốc giấy tờ chứng
minh Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn đối với nhà ở đó để lưu hồ sơ.
Điều 14.
Trình
tự, thủ tục thanh toán tiền trưng mua quy định tại Điều 6 và thanh toán tiền bồi
thường quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này được thực hiện như sau:
1. Người thuộc diện được thanh
toán tiền quy định tại Điều 6 của Nghị quyết này phải nộp hồ sơ đề nghị thanh
toán tại cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh. Trường hợp thuộc diện được giao lại
nhưng nhà ở đó không đủ điều kiện được giao lại theo quy định tại Điều 9 của
Nghị quyết này thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh sử dụng hồ sơ quy định tại khoản
1 Điều 12 của Nghị quyết này để áp dụng thủ tục thanh toán tiền.
Cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh có
trách nhiệm chủ trì phối hợp với cơ quan tài chính thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
kiểm tra hồ sơ đề nghị thanh toán tiền và các điều kiện được thanh toán quy định
tại Nghị quyết này và xác định cụ thể số tiền thanh toán cho từng đối tượng để
trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thanh toán trong thời hạn
60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thanh toán tiền;
2. Trường hợp có đủ điều kiện
thanh toán tiền thì
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thanh toán trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày nhận được tờ trình của cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh. Trong quyết
định thanh toán tiền phải ghi rõ cơ quan có trách nhiệm thanh toán; nếu không đủ
điều kiện thanh toán thì
ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải có văn bản trả lời để đương sự biết rõ lý do;
3. Cơ quan có trách nhiệm thanh
toán tiền phải tổ chức thanh toán cho người thuộc diện được thanh toán trong thời
hạn 90 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thanh
toán. Việc thanh toán tiền phải lập hoá đơn tài chính theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp người nhận tiền
là các đồng thừa kế của người được thanh toán thì trong hoá đơn nhận
tiền phải có chữ ký của các đồng thừa kế đó, trừ trường hợp các đồng thừa kế có
văn bản thỏa thuận cử đại diện để nhận tiền thanh toán;
4. Trước khi thực hiện thanh
toán, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thanh toán phải thu hồi các giấy tờ gốc
quy định tại Điều 12 của Nghị quyết này để lưu hồ sơ;
5. Chính phủ quy định cụ thể
kinh phí để thực hiện việc thanh toán theo các quy định của
Nghị quyết này.
Điều 15.
Đối với các trường hợp nhà đất thuộc diện điều chỉnh của
Nghị quyết này nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ra quyết định giải quyết
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì xử lý như
sau:
1. Trường hợp nhà đất đã có quyết
định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trên thực tế đã giải quyết
xong thì
không áp dụng các quy định của Nghị quyết này để giải quyết lại;
2. Trường hợp nhà đất đã có quyết
định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng chưa được thực hiện thì
được giải quyết lại theo quy định của Nghị quyết này.
Điều 16.
Việc giải quyết khiếu nại trong quá trình
thực hiện các quy định của Nghị quyết này được thực hiện như sau:
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu đối với các trường hợp
khiếu nại liên quan đến Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
trong việc thực hiện các quy định của Nghị quyết này. Trường hợp đương sự không
đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết
khiếu nại cuối cùng;
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh giải quyết lần đầu đối với các trường hợp khiếu nại liên quan đến Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện các quy định của Nghị quyết này. Trường
hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Xây dựng; quyết định của Bộ
trưởng Bộ Xây dựng là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;
3. Thời hiệu khiếu nại đối với
các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là 60 ngày, kể từ ngày
đương sự nhận được quyết định giải quyết khiếu nại;
4. Thời hạn giải quyết khiếu nại
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là 30 ngày, kể từ ngày cơ quan giải
quyết khiếu nại nhận được đầy đủ hồ sơ khiếu nại của đương sự; nếu hết thời hạn
này mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không
giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều này thì đương sự có quyền khiếu nại
lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để giải quyết; nếu hết thời hạn này mà Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều
này thì đương sự có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Xây dựng để giải quyết.
Thời hạn khiếu nại của đương sự là 30
ngày, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định giải quyết khiếu nại.
Điều 17.
Nghị
quyết này có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Điều 18.
Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện Nghị
quyết này thống nhất trong cả nước, bảo đảm công khai, minh bạch và hoàn thành
chậm nhất trước ngày 01 tháng 7 năm 2009 và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về
kết quả thực hiện Nghị quyết.