Luật Đất đai 2024

Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/7/1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành

Số hiệu 755/2005/NQ-UBTVQH11
Cơ quan ban hành Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Ngày ban hành 02/04/2005
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Bất động sản,Quyền dân sự
Loại văn bản Nghị quyết
Người ký Nguyễn Văn An
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 755/2005/NQ-UBTVQH11

Hà Nội, ngày 02 tháng 4 năm 2005

 

NGHỊ QUYẾT

QUY ĐỊNH VIỆC GIẢI QUYẾT ĐỐI VỚI MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ VỀ NHÀ ĐẤT TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ ĐẤT VÀ CHÍNH SÁCH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC NGÀY 01 THÁNG 7 NĂM 1991

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khoá XI về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Chính phủ,

QUYẾT NGHỊ:

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Nghị quyết này quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể sau đây:

1. Nhà đất mà chủ sở hữu tuy thuộc diện thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khoá XI về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 23/2003/QH11) nhưng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, cơ quan nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó;

2. Nhà đất mà Nhà nước đã có văn bản quản lý nhưng thực tế chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng;

3. Nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần cho chủ sở hữu;

4. Nhà đất mà Nhà nước đã trưng dụng;

5. Diện tích nhà đất mà Nhà nước đã để lại khi thực hiện chính sách cải tạo nhà đất cho thuê và chính sách quản lý nhà đất của tổ chức, cá nhân.

Điều 2. Đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 nhưng không quy định tại Nghị quyết này thì thực hiện theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11.

Điều 3. Trong Nghị quyết này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Các văn bản quản lý được áp dụng khi giải quyết các trường hợp quy định tại Nghị quyết này bao gồm quyết định, thông báo, công văn, văn bản kê biên, kiểm kê, danh sách kiểm kê và các giấy tờ khác liên quan đến việc quản lý, bố trí sử dụng nhà đất của Uỷ ban hành chính, Uỷ ban quân quản, Uỷ ban nhân dân cách mạng, Uỷ ban nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước các cấp, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức xã hội.

2. Nhà đất quy định tại Nghị quyết này bao gồm nhà ở kể cả khuôn viên (nếu có) và các loại nhà khác.

Chương 2:

GIẢI QUYẾT ĐỐI VỚI TỪNG TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ

Điều 4. Đối với nhà đất mà chủ sở hữu tuy thuộc diện thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, cơ quan nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không thực hiện việc quản lý theo quy định của các chính sách trước đây. Việc công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Điều 5. Đối với nhà đất đã có văn bản quản lý theo quy định của các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 của cơ quan nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì giải quyết như sau:

1. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng có các giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng dưới đây thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý theo văn bản quản lý trước đây và người đang trực tiếp sử dụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật:

a) Người là chủ sở hữu nhà đất tại thời điểm Nhà nước có văn bản quản lý;

b) Người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;

c) Người mua, nhận tặng cho, chuyển đổi nhà đất ngay tình;

d) Người thừa kế hợp pháp của một trong những người quy định tại các điểm a, b và c khoản này;

đ) Người được các đối tượng quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này uỷ quyền quản lý hợp pháp theo quy định của pháp luật tại thời điểm uỷ quyền;

2. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng là người thuê, mượn, ở nhờ từ trước khi Nhà nước có văn bản quản lý hoặc người đang trực tiếp sử dụng nhưng không có giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân. Người đang trực tiếp sử dụng được tiếp tục sử dụng và phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu toàn dân.

Điều 6. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần cho chủ sở hữu thì Nhà nước thực hiện thanh toán cho chủ sở hữu hoặc người thừa kế hợp pháp của họ theo quy định sau đây:

1. Trường hợp khi trưng mua Nhà nước chưa thanh toán tiền thì Nhà nước thực hiện định giá để thanh toán. Số tiền thanh toán được xác định trên cơ sở diện tích nhà lúc trưng mua và giá nhà ở xây dựng mới của nhà ở cấp 2, nếu nhà trưng mua là biệt thự thì áp dụng giá xây dựng mới của biệt thự hạng 2 do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành tại thời điểm thanh toán;

2. Trường hợp khi trưng mua Nhà nước đã thanh toán một phần thì số tiền còn lại được tính theo phần trăm để thanh toán. Việc xác định giá để thanh toán được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 7. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng dụng thì giải quyết như sau:

1. Nhà ở của hộ gia đình, cá nhân không thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 mà cơ quan nhà nước đã trưng dụng có thời hạn thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao lại nhà ở đó cho chủ sở hữu, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này;

2. Nhà đất mà Nhà nước đã trưng dụng nhưng không thuộc diện được giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với nhà đất đó. Tổ chức, cá nhân đang sử dụng được tiếp tục sử dụng và phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu toàn dân.

Điều 8. Đối với diện tích nhà đất được để lại không phân biệt người được để lại là ai, diện tích được để lại nhiều hay ít khi Nhà nước thực hiện quản lý theo quy định của chính sách cải tạo nhà đất cho thuê hoặc chính sách quản lý nhà đất của tổ chức, cá nhân thì Nhà nước không quản lý đối với diện tích nhà đất này. Người đang trực tiếp sử dụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Điều 9. Đối với nhà ở thuộc diện được giao lại quy định tại khoản 1 Điều 7 và nhà đất thuộc diện được công nhận quyền sở hữu quy định tại Điều 8 của Nghị quyết này nhưng đã được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; đã bị phá dỡ xây dựng lại; đã được Nhà nước bố trí cho người khác sử dụng ổn định, đã được xác lập sở hữu toàn dân; đã chuyển quyền sở hữu cho người khác hoặc nhà đất đó thuộc diện phải giải tỏa theo quy hoạch để chỉnh trang đô thị thì người thuộc diện được giao lại, người được công nhận quyền sở hữu được bồi thường, hỗ trợ tái định cư theo quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Chương 3:

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 10. Đối với những trường hợp Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng nhà đất theo các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, chủ sở hữu chưa có chỗ ở hoặc có chỗ ở nhưng diện tích bình quân trong hộ gia đình thấp hơn hoặc bằng 6m2/người thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bố trí để họ được thuê nhà ở hoặc được mua nhà ở trả góp.

Điều 11. Nguồn kinh phí để thực hiện Nghị quyết này được quy định như sau:

1. Ngân sách trung ương thanh toán đối với trường hợp nhà đất đang do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp của trung ương quản lý, sử dụng hoặc nhà đất đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do các cơ quan của trung ương quản lý, sử dụng;

2. Ngân sách địa phương thanh toán đối với trường hợp nhà đất đang do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp của địa phương quản lý, sử dụng hoặc nhà đất đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do các cơ quan của địa phương quản lý, sử dụng hoặc nhà đất mà Nhà nước đã bố trí cho người khác sử dụng ổn định hoặc đã chuyển quyền sở hữu cho người khác theo quy định của pháp luật.

Trường hợp ngân sách địa phương quy định tại khoản này không đủ để thanh toán thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải xác định cụ thể số kinh phí để đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ;

3. Chủ đầu tư các dự án thực hiện thanh toán đối với các trường hợp nhà đất phải giải tỏa để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế hoặc chỉnh trang đô thị;

4. Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế thực hiện thanh toán đối với trường hợp nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua và nhà ở thuộc diện được giao lại nhưng hiện do các tổ chức này quản lý, sử dụng.

Trong trường hợp tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp quy định tại khoản này không đủ kinh phí để thanh toán thì phải lập báo cáo cụ thể số kinh phí để đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ nếu là tổ chức của trung ương, đề nghị ngân sách địa phương hỗ trợ nếu là tổ chức của địa phương;

5. Bộ Xây dựng tổng hợp nhu cầu kinh phí thanh toán quy định tại Nghị quyết này để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp phân bổ ngân sách hàng năm của Quốc hội.

Điều 12. Hồ sơ đề nghị nhận lại nhà ở hoặc nhận tiền thanh toán được quy định như sau:

1. Người thuộc diện được giao lại nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết này phải có đơn đề nghị giao lại nhà ở kèm theo bản sao có công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền đối với giấy tờ gốc về nhà ở thuộc diện được giao lại và giấy tờ chứng minh Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn nhà ở của mình;

2. Người thuộc diện được thanh toán tiền quy định tại Điều 6 của Nghị quyết này phải có đơn đề nghị thanh toán kèm theo bản sao có công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền đối với giấy tờ chứng minh Nhà nước đã trưng mua nhà đất nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần.

Người có nhà ở thuộc diện được giao lại nhưng nhà ở đó thuộc diện quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này thì hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này được chuyển sang để áp dụng cho việc thanh toán tiền theo quy định tại Điều 14 của Nghị quyết này.

Điều 13. Trình tự, thủ tục giao lại nhà ở đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết này được thực hiện như sau:

1. Người thuộc diện được giao lại nhà ở nộp hồ sơ đề nghị giao lại nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết này tại cơ quan quản lý nhà thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (sau đây gọi chung là cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh). Cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ đề nghị giao lại nhà ở, hiện trạng nhà ở thuộc diện được giao lại và điều kiện được giao lại quy định tại Nghị quyết này trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị giao lại nhà ở;

2. Trên cơ sở kết quả kiểm tra hồ sơ, hiện trạng nhà ở với sự thống nhất giữa các bên có liên quan về kết quả kiểm tra đó, cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giao lại nhà ở. Trường hợp có đủ điều kiện giao lại thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giao lại nhà ở trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được tờ trình của cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh.

Trong trường hợp không đủ điều kiện để giao lại nhà ở thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải có văn bản trả lời để đương sự biết rõ lý do;

3. Cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức bàn giao nhà ở cho người thuộc diện được giao lại trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giao lại nhà ở. Trong trường hợp người nhận lại nhà ở là các đồng thừa kế thì trong biên bản bàn giao nhà ở phải có chữ ký của các đồng thừa kế đó, trừ trường hợp các đồng thừa kế có văn bản thỏa thuận cử đại diện để nhận bàn giao nhà ở đó. Trước khi bàn giao nhà ở, cơ quan bàn giao phải thu hồi bản gốc giấy tờ chứng minh Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn đối với nhà ở đó để lưu hồ sơ.

Điều 14. Trình tự, thủ tục thanh toán tiền trưng mua quy định tại Điều 6 và thanh toán tiền bồi thường quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này được thực hiện như sau:

1. Người thuộc diện được thanh toán tiền quy định tại Điều 6 của Nghị quyết này phải nộp hồ sơ đề nghị thanh toán tại cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh. Trường hợp thuộc diện được giao lại nhưng nhà ở đó không đủ điều kiện được giao lại theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này thì cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh sử dụng hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết này để áp dụng thủ tục thanh toán tiền.

Cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh có trách nhiệm chủ trì phối hợp với cơ quan tài chính thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra hồ sơ đề nghị thanh toán tiền và các điều kiện được thanh toán quy định tại Nghị quyết này và xác định cụ thể số tiền thanh toán cho từng đối tượng để trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thanh toán trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thanh toán tiền;

2. Trường hợp có đủ điều kiện thanh toán tiền thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thanh toán trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được tờ trình của cơ quan quản lý nhà cấp tỉnh. Trong quyết định thanh toán tiền phải ghi rõ cơ quan có trách nhiệm thanh toán; nếu không đủ điều kiện thanh toán thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải có văn bản trả lời để đương sự biết rõ lý do;

3. Cơ quan có trách nhiệm thanh toán tiền phải tổ chức thanh toán cho người thuộc diện được thanh toán trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thanh toán. Việc thanh toán tiền phải lập hoá đơn tài chính theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp người nhận tiền là các đồng thừa kế của người được thanh toán thì trong hoá đơn nhận tiền phải có chữ ký của các đồng thừa kế đó, trừ trường hợp các đồng thừa kế có văn bản thỏa thuận cử đại diện để nhận tiền thanh toán;

4. Trước khi thực hiện thanh toán, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thanh toán phải thu hồi các giấy tờ gốc quy định tại Điều 12 của Nghị quyết này để lưu hồ sơ;

5. Chính phủ quy định cụ thể kinh phí để thực hiện việc thanh toán theo các quy định của Nghị quyết này.

Điều 15. Đối với các trường hợp nhà đất thuộc diện điều chỉnh của Nghị quyết này nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ra quyết định giải quyết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì xử lý như sau:

1. Trường hợp nhà đất đã có quyết định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trên thực tế đã giải quyết xong thì không áp dụng các quy định của Nghị quyết này để giải quyết lại;

2. Trường hợp nhà đất đã có quyết định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng chưa được thực hiện thì được giải quyết lại theo quy định của Nghị quyết này.

Điều 16. Việc giải quyết khiếu nại trong quá trình thực hiện các quy định của Nghị quyết này được thực hiện như sau:

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu đối với các trường hợp khiếu nại liên quan đến Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong việc thực hiện các quy định của Nghị quyết này. Trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu đối với các trường hợp khiếu nại liên quan đến Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện các quy định của Nghị quyết này. Trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Xây dựng; quyết định của Bộ trưởng Bộ Xây dựng là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;

3. Thời hiệu khiếu nại đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là 60 ngày, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định giải quyết khiếu nại;

4. Thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là 30 ngày, kể từ ngày cơ quan giải quyết khiếu nại nhận được đầy đủ hồ sơ khiếu nại của đương sự; nếu hết thời hạn này mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều này thì đương sự có quyền khiếu nại lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để giải quyết; nếu hết thời hạn này mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều này thì đương sự có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Xây dựng để giải quyết.

Thời hạn khiếu nại của đương sự là 30 ngày, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định giải quyết khiếu nại.

Điều 17. Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày công bố.

Điều 18. Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện Nghị quyết này thống nhất trong cả nước, bảo đảm công khai, minh bạch và hoàn thành chậm nhất trước ngày 01 tháng 7 năm 2009 và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về kết quả thực hiện Nghị quyết.

 

 

Nguyễn Văn An

(Đã ký)

 

124
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/7/1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Tải văn bản gốc Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/7/1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành

STANDING COMMITTEE OF NATIONAL ASSEMBLY
--------

SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM
Independence - Freedom - Happiness
---------------

No.755/2005/NQ-UBTVQH11

Hanoi, April 02, 2005

 

RESOLUTION

ON SETTLMENT OF CERTAIN CASES OF PROPERTY DURING IMPLEMENTATION OF PROPERTY MANAGEMENT POLICIES AND SOCIALIST TRANSFORMATION POLCIIES BEFORE JULY 01, 1991

STANDING COMMITTEE OF NATIONAL ASSEMBLY

Pursuant to the Constitution of the Socialist Republic of Vietnam 1992 which is amended by Resolution No.51/2001/QH10 dated December 25, 2001 of the 11th National Assembly on the 10th meeting;

Pursuant to Resolution No.23/2003/QH11 dated November 26, 2003 of the 11th National Assembly on the property put under management and put into use by the State during implementation of property management policies and socialist transformation policies before July 01, 1991;

At the request of the Government,

HEREBY DECIDES:

Chapter 1:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 1. This Resolution provides for settlement of the following certain cases:

1. Property whose owners are regulated by policies specified in Article 2 of Resolution No.23/2003/QH11 dated November 26, 2003 of the 11th National Assembly on the property put under management and allocated by the State during implementation of policies on property management and socialist transformation before July 01, 1991 (hereinafter referred to as "Resolution No.23/2003/QH11) but is not put under management or put into use by a regulatory agency in reality by the effective date of this Resolution;

2. Property put under management by the State but not put into use in reality;

3. Property compulsorily purchased by the State without payment, whether in part or in full;

4. Property requisitioned by the State;

5. The remaining area not affected during implementation of policies on renovation of property for lease and management of property of other organizations and individuals.

Article 2. Property put under management and put into use by the State during implementation of policies on property management and socialist transformation before July 01, 1991 but not specified herein shall be settled in compliance with regulations in Article 1 and 2 of Resolution No.23/2003/QH11.

Article 3. For the purposes of this Resolution, the terms below shall be construed as follows:

1. ”put under management” means the issuance of a decision, notice, official dispatch, distrait record, stocktaking record or another type of document related to the management and for use of the property by Administrative Committees, Military Management Committees, Resolution People's Committees, People’s Committees, state management agencies of various levels, political organizations, state-owned economic organizations and social organizations.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Chapter 2:

ACTIONS TAKEN IN CERTAIN CASES

Article 4. Previous management policies shall not apply to the property whose the owners are regulated by policies specified in Article 2 of Resolution No.23/2003/QH11 but is not put under management or put into use by any regulatory agency the effective date of this Resolution. Recognition of home ownership and land use right shall comply with law provisions.

Article 5. The property put under state management as regulated by policies on property management and socialist transformation before July 01, 1991 but not put into use in reality shall be settled as follows:

1. The property shall be no longer under state management if it is being used by a person who possesses documents proving that he/she:

a) is the property owner at the time such property is put under state management;

b) is granted a certificate of home ownership and land use right by a regulatory agency as per law provisions;

c) is the bona fide buyer or receiver of the property (as a gift) or person undertaking property conversion;

d) is a lawful inheritor of one of the persons specified in Point a, b and c this Clause;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

2. For the case in which the property is being used by a person under lease or borrowing agreement or permission for stay before the day on which such property is put under state management or being used by a person who does not possess any of the documents specified in Clause 1 this Article, the People's Committee of the province shall complete legal procedures for claiming public ownership of such property. The current users the property may keep using such property and must exercise their rights and obligations in compliance with regulations on use of property under public ownership.

Article 6. For the case in which the property has been compulsorily purchased by the State but the payment is not yet made, whether in part or in full, the State shall pay the property owner or his/her inheritor under the following regulations:

1. In case no payment has been made, the State shall carry out valuation of the property in order to calculate the amount of money paid. The amount of money paid shall be determined according to the property's area at the time of compulsory purchase and prices for new construction of level 2 housing. If the house subject to the compulsory purchase order is a villa, the prices for new construction of level 2 villa specified by the provincial People's Committee at the payment time shall be applied;

2. In case the property has been partially paid for, the remaining amount of money payable shall be calculated on a percentage basis. Valuation of property shall be carried out as prescribed in Clause 1 this Article.

Article 7. For property requisitioned by the State:

1. Houses of family households or individuals not regulate by policies specified in Article 2 of Resolution No.23/2003/QH11 which have been requisitioned by regulatory agencies for a limited period of time shall be returned to their owners, except those specified in Article 9 hereof;

2. For the property which has been requisitioned by the State other than those specified in Clause 1 this Article, the provincial People's Committee shall complete legal procedures for claiming public ownership for such property. The current users of such property may keep using it and must exercise their rights and obligations in compliance with regulations on use of property under public ownership.

Article 8. Property without identifiable giver or are will not be put under state management. The current users of such property shall exercise their rights and obligations as per law provisions.

Article 9. If the property specified in Clause 1 Article 7 and Article 8 hereof is being used for national defense and security, national and public interests, economic development; demolished for re-construction; provided for other entities for permanent use or under public ownership; or their ownership have been transferred to other entities or those under clearance order according to the planning for urban renewal purpose, their owners or persons recognized to acquire property ownership shall receive a compensation or financial support for relocation as per law provisions in case of State’s appropriation of land, unless otherwise agreed.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

IMPLEMENTATION

Article 10. If, by the effective date of this Resolution, the owner of the property put under management or put into use by the State according to Article 2 of Resolution No.23/2003/QH11 does not have a place to live or have one but the average area is less than or equal to 6 m2 per capita, the provincial People's Committee shall provide housing for them to lease or purchase by installment.

Article 11. Funding for implementing this Resolution shall be provided as follows:

1. Central government budget shall cover payment for the property being managed or used by regulatory agencies, political organizations, socio-political organizations, socio-professional organizations affiliated to central authorities or those being used or managed for the purposes of national defense and security, national and public interests by centrally-affiliated entities;

2. Local government budget shall cover payment for the property being managed or used by regulatory agencies, political organizations, socio-political organizations, socio-professional organizations affiliated to local government authorities or those being used or managed for the purposes of national defense and security, national and public interests under management of locally-affiliated entities or property provided for other entities for stable use by the State or those of which ownership is transferred to other entities as per law provisions.

If the local government budget mentioned above is inadequate for the payment, the provincial People’s Committee shall determine specific amount of funding from central government budget;

3. Project investors shall make payment for property under the land clearance order for the purpose of economic development or urban renewal;

4. Social organizations, socio-professional organizations and economic organizations shall make payment for the property compulsorily purchased by the State and houses entitled to be returned are currently under management and use of such organizations.

If social organizations and socio-professional organizations specified herein do not have adequate funds for payment, they should request a specific funding amount from central or local government budget;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 12. Applications for reclaiming houses or payment shall be specified as follows:

1. The claimant of housing specified in Clause 1 Article7 hereof must have an application form for housing reclaiming with copies of original documents proving the house is entitled for reclaiming which are notarized by the State or certified by competent People’s Committee and documents proving that such house has been requisitioned by the State for a fixed period.

2. The claimant of payment mentioned in Article 6 hereof shall have send an application form for payment with copies of documents proving that their property has been compulsorily purchased by the State without payment or with partial payment which are notarized by the State or certified by competent People’s Committee.

For persons whose property is mentioned in Article 9 hereof, the application specified in Clause 1 this Article shall be used for payment as prescribed in Article 14 hereof.

Article 13. Procedures for returning houses as specified in Clause 1 Article 7 hereof shall be carried out as follows:

1. The claimant of housing shall send an application for housing reclaiming as specified in Clause 1 Article 12 hereof to housing management authorities affiliated to provincial People's Committees (hereinafter referred to as "provincial housing management authorities”). The provincial housing management authority shall check the application and actual state of the house to be returned and conditions for house reclaiming specified herein within 90 days from the day on which the satisfactory application is received;

2. According to the result of inspection of application and actual state of the house and consent to such result given by relevant parties, the provincial housing management authority shall request Chairperson of provincial People's Committee to issue a decision to return the house to it owners. If the application is accepted, the Chairperson of provincial People’s Committee shall issue a decision to return the house to its owner within 30 days from the day on which the request from provincial housing management authority is received.

The provincial People's Committee shall send a written response with clear explanation to the applicant if the application is rejected.

3. The provincial housing management authority shall return the house to the claimant of housing within 60 days from the day on which the decision on housing return is issued by Chairperson of provincial People's Committee. If persons receiving the house are co-inheritors of the homeowner, the record of house transfer shall be signed by such co-inheritors, except for the case in which these co-inheritors enter into a written agreement to appoint a representative to receive the house. Before transferring the house, the transfer agency shall take back the original document proving such house has been requisitioned by the State for a fixed term.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

1. The claimant of payment specified in Article 6 hereof shall send an application for payment for house compulsory purchase to the provincial housing management authority. If such person is entitled to reclaim the house but such house is not eligible to be returned as specified in Article 9 hereof, the provincial housing management authority shall use the application specified in Clause 1 Article 12 hereof to carry out the payment procedure.

The provincial housing management authority shall take charge and cooperate with the financial agency affiliated to the provincial People’s Committee in checking the application for payment and conditions for receiving payment specified herein and determining the particular amount of money paid to each person and send a request to the Chairperson of provincial People's Committee for issuing a payment decision within 60 days from the day on which the satisfactory application is received;

2. If the applicant is found eligible to claim the payment, the Chairperson of provincial People’s Committee shall issue a payment decision within 30 days from the day on which the request from provincial housing management authority is received. The payment decision shall specify which agency is responsible for the payment; the provincial People's Committee shall send a written response with clear explanation to the applicant if the application is rejected;

3. The agency responsible for the payment shall make payment to the claimant of payment within 90 days from the day on which the payment decision is issued from the Chairperson of provincial People's Committee. It is required to issue an invoice for such payment as per law provisions.

If the money receivers are co-inheritors of the claimant of payment, the invoice shall be signed by such co-inheritors, except for the case in which these co-inheritors enter into a written agreement to appoint a representative to receive the money paid;

4. The agency responsible for the payment shall take back original documents specified in Article 12 hereof for storage purpose before making payment;

5. The Government shall specify the particular amount of funding for payment as prescribed herein.

Article 15. For property to be adjusted as specified herein but subject to the settlement decision issued by regulatory agencies before the effective date of this Resolution, the following actions shall be taken:

1. If the property has been put under settlement and completely settled in reality by a regulatory agency, it is not required to apply the regulations specified herein for re-settlement;

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Article 16. Complaints arising in the course of implementation of regulations herein shall be settled as follows:

1. Chairpersons of People’s Committees of districts and provincially-affiliated cities shall handle complaints about the compliance with regulations herein performed by these People’s Committees resolve the first time. If the entities concerned dissent from the handling opinions of the aforesaid Chairpersons, they may send the complaints to provincial People’s Committees; Decision issued by Chairpersons of these People’s Committees shall be considered the final decision on complaint resolution;

2. Chairpersons of provincial People’s Committees shall resolve complaints about compliance with regulations herein performed by these People’s Committees for the first time; If the entities concerned dissent from the opinions of the Chairpersons mentioned above, they may send the complaints to the Minister of Construction; Decision issued by the Minister of Construction shall be considered the final decision on complaint resolution;

3. Complaints specified in Clause 1 and 2 this Article shall be sent within 60 days from the day on which the first decision on complaint resolution is received.

4. Complaints specified in Clause 1 and 2 this Article shall be handled within 30 days from the day on which the complaint dossier is received by the agency in charge of complaint resolution; If the Chairperson of People's Committee of district level or provincially-affiliated city fails to resolve the complaint as prescribed in Clause 1 this Article by the deadline mentioned above, such complaint may be sent to Chairperson of provincial People’s Committee; If the Chairperson of provincial People's Committee fails to handle such complaint within 30 days as specified in Clause 2 this Article, the complaint may be sent to the Minister of Construction.

The complaint shall be sent to the Minister of Construction within 30 days from the day on which the previous decisions on complaint resolution are received.

Article 17. This Resolution comes into force from the day on which it is signed.

Article 18. The Government shall provide guidelines for implementation of this Resolution in a consistent, public and transparent manner and finish such implementation before July 01, 2009, and send a report on results of implementation of this Resolution to the Standing Committee of National Assembly.

 

...

...

...

Bạn phải đăng nhập tài khoản TVPL Pro để xem được toàn bộ nội dung văn bản Tiếng Anh

Nguyen Van An

(Signed)

 

Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/7/1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Số hiệu: 755/2005/NQ-UBTVQH11
Loại văn bản: Nghị quyết
Lĩnh vực, ngành: Bất động sản,Quyền dân sự
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Người ký: Nguyễn Văn An
Ngày ban hành: 02/04/2005
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 3. Thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng theo các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11, khoản 2 Điều 5, Điều 6 và khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 được thực hiện như sau:

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan có chức năng thống kê, rà soát và tổng hợp danh sách các loại nhà đất thuộc diện phải hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân trên địa bàn và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định xác lập sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất này.

2. Căn cứ vào hiện trạng và mục đích sử dụng nhà đất mà Nhà nước đã xác lập sở hữu toàn dân quy định tại khoản 1 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao nhiệm vụ quản lý quỹ nhà đất này theo quy định sau đây:

a) Đối với diện tích nhà đất đang được sử dụng vào mục đích để ở thì giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý theo quy định hiện hành về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước. Trường hợp diện tích nhà đất này không nằm trong quy hoạch sử dụng để ở thì phải giải toả và thực hiện bồi thường theo quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

b) Đối với diện tích nhà đất đang do các cơ quan, tổ chức (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này) quản lý, sử dụng vào mục đích không phải để ở thì giao cho các cơ quan, tổ chức đó quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

Trường hợp các cơ quan, tổ chức đang cho thuê quỹ nhà đất này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi để giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

c) Đối với diện tích nhà đất đang do các doanh nghiệp không có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước quản lý, sử dụng thì căn cứ vào giá chuẩn nhà ở cùng loại xây dựng mới và giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định theo khung giá của Chính phủ để xác định giá trị nhà đất làm cơ sở để giao vốn cho các doanh nghiệp. Việc sử dụng đất của các doanh nghiệp trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.

Trong trường hợp các doanh nghiệp quy định tại điểm này sử dụng nhà đất không đúng mục đích được giao hoặc cho tổ chức, cá nhân khác thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi và giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý theo quy định hiện hành về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

d) Đối với diện tích nhà đất thuộc diện phải giải toả để thực hiện các dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì giao cho các chủ đầu tư dự án để triển khai thực hiện dự án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp chưa có chủ đầu tư thì giao cho tổ chức phát triển quỹ đất của địa phương quản lý theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 5. Đối với nhà đất đã có văn bản quản lý theo quy định của các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 của cơ quan nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì giải quyết như sau:
...
2. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng là người thuê, mượn, ở nhờ từ trước khi Nhà nước có văn bản quản lý hoặc người đang trực tiếp sử dụng nhưng không có giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân. Người đang trực tiếp sử dụng được tiếp tục sử dụng và phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu toàn dân.
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 3. Thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng theo các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11, khoản 2 Điều 5, Điều 6 và khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 được thực hiện như sau:

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan có chức năng thống kê, rà soát và tổng hợp danh sách các loại nhà đất thuộc diện phải hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân trên địa bàn và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định xác lập sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất này.

2. Căn cứ vào hiện trạng và mục đích sử dụng nhà đất mà Nhà nước đã xác lập sở hữu toàn dân quy định tại khoản 1 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao nhiệm vụ quản lý quỹ nhà đất này theo quy định sau đây:

a) Đối với diện tích nhà đất đang được sử dụng vào mục đích để ở thì giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý theo quy định hiện hành về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước. Trường hợp diện tích nhà đất này không nằm trong quy hoạch sử dụng để ở thì phải giải toả và thực hiện bồi thường theo quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

b) Đối với diện tích nhà đất đang do các cơ quan, tổ chức (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này) quản lý, sử dụng vào mục đích không phải để ở thì giao cho các cơ quan, tổ chức đó quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

Trường hợp các cơ quan, tổ chức đang cho thuê quỹ nhà đất này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi để giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

c) Đối với diện tích nhà đất đang do các doanh nghiệp không có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước quản lý, sử dụng thì căn cứ vào giá chuẩn nhà ở cùng loại xây dựng mới và giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định theo khung giá của Chính phủ để xác định giá trị nhà đất làm cơ sở để giao vốn cho các doanh nghiệp. Việc sử dụng đất của các doanh nghiệp trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.

Trong trường hợp các doanh nghiệp quy định tại điểm này sử dụng nhà đất không đúng mục đích được giao hoặc cho tổ chức, cá nhân khác thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi và giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý theo quy định hiện hành về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

d) Đối với diện tích nhà đất thuộc diện phải giải toả để thực hiện các dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì giao cho các chủ đầu tư dự án để triển khai thực hiện dự án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp chưa có chủ đầu tư thì giao cho tổ chức phát triển quỹ đất của địa phương quản lý theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 6. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần cho chủ sở hữu thì Nhà nước thực hiện thanh toán cho chủ sở hữu hoặc người thừa kế hợp pháp của họ theo quy định sau đây:

1. Trường hợp khi trưng mua Nhà nước chưa thanh toán tiền thì Nhà nước thực hiện định giá để thanh toán. Số tiền thanh toán được xác định trên cơ sở diện tích nhà lúc trưng mua và giá nhà ở xây dựng mới của nhà ở cấp 2, nếu nhà trưng mua là biệt thự thì áp dụng giá xây dựng mới của biệt thự hạng 2 do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành tại thời điểm thanh toán;

2. Trường hợp khi trưng mua Nhà nước đã thanh toán một phần thì số tiền còn lại được tính theo phần trăm để thanh toán. Việc xác định giá để thanh toán được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 6 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 6. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần theo quy định tại Điều 6 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan có chức năng thực hiện việc thanh toán theo quy định sau đây:

1. Đối chiếu hồ sơ đề nghị thanh toán với hồ sơ gốc về trưng mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần để xác định cụ thể đối tượng thuộc diện được thanh toán, diện tích nhà khi Nhà nước trưng mua.

2. Thực hiện định giá nhà theo nguyên tắc lấy giá xây dựng mới của nhà ở cấp 2, nếu là biệt thự thì lấy giá xây dựng mới của biệt thự hạng 2 do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm thanh toán nhân với diện tích sử dụng nhà khi Nhà nước trưng mua để tính tiền làm cơ sở thanh toán.

Trong trường hợp Nhà nước đã thanh toán một phần tiền thì phần tiền còn lại cũng được thanh toán cho chủ sở hữu hoặc người thừa kế hợp pháp của họ theo nguyên tắc lấy giá xây dựng mới của nhà ở cấp 2, nếu là biệt thự thì lấy giá xây dựng mới của biệt thự hạng 2 do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm thanh toán nhân với diện tích sử dụng nhà khi Nhà nước trưng mua trừ đi phần trăm số tiền mà Nhà nước đã thanh toán trước đây.

Không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá để thanh toán quy định tại khoản này.

3. Lập danh sách từng đối tượng thuộc diện được thanh toán, trong đó nêu rõ diện tích sử dụng nhà khi Nhà nước trưng mua, số tiền phải thanh toán của từng trường hợp để trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, ra quyết định thanh toán. Trong quyết định thanh toán của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải ghi rõ tên người được thanh toán, số tiền được thanh toán, thời hạn thanh toán và cơ quan có trách nhiệm thanh toán.

4. Tổ chức thanh toán theo đúng quy định của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 và Nghị định này.

5. Trường hợp địa phương không đủ kinh phí để thanh toán thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải lập báo cáo giải trình cụ thể kèm theo danh sách các đối tượng thuộc diện được thanh toán và số tiền còn thiếu gửi về Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ thể việc thanh toán quy định tại Điều này.

Xem nội dung VB
Điều 6. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua nhưng chưa thanh toán tiền hoặc đã thanh toán một phần cho chủ sở hữu thì Nhà nước thực hiện thanh toán cho chủ sở hữu hoặc người thừa kế hợp pháp của họ theo quy định sau đây:

1. Trường hợp khi trưng mua Nhà nước chưa thanh toán tiền thì Nhà nước thực hiện định giá để thanh toán. Số tiền thanh toán được xác định trên cơ sở diện tích nhà lúc trưng mua và giá nhà ở xây dựng mới của nhà ở cấp 2, nếu nhà trưng mua là biệt thự thì áp dụng giá xây dựng mới của biệt thự hạng 2 do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành tại thời điểm thanh toán;

2. Trường hợp khi trưng mua Nhà nước đã thanh toán một phần thì số tiền còn lại được tính theo phần trăm để thanh toán. Việc xác định giá để thanh toán được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 6 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 3. Thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng theo các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11, khoản 2 Điều 5, Điều 6 và khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 được thực hiện như sau:

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan có chức năng thống kê, rà soát và tổng hợp danh sách các loại nhà đất thuộc diện phải hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân trên địa bàn và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định xác lập sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất này.

2. Căn cứ vào hiện trạng và mục đích sử dụng nhà đất mà Nhà nước đã xác lập sở hữu toàn dân quy định tại khoản 1 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao nhiệm vụ quản lý quỹ nhà đất này theo quy định sau đây:

a) Đối với diện tích nhà đất đang được sử dụng vào mục đích để ở thì giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý theo quy định hiện hành về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước. Trường hợp diện tích nhà đất này không nằm trong quy hoạch sử dụng để ở thì phải giải toả và thực hiện bồi thường theo quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

b) Đối với diện tích nhà đất đang do các cơ quan, tổ chức (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này) quản lý, sử dụng vào mục đích không phải để ở thì giao cho các cơ quan, tổ chức đó quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

Trường hợp các cơ quan, tổ chức đang cho thuê quỹ nhà đất này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi để giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

c) Đối với diện tích nhà đất đang do các doanh nghiệp không có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước quản lý, sử dụng thì căn cứ vào giá chuẩn nhà ở cùng loại xây dựng mới và giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định theo khung giá của Chính phủ để xác định giá trị nhà đất làm cơ sở để giao vốn cho các doanh nghiệp. Việc sử dụng đất của các doanh nghiệp trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.

Trong trường hợp các doanh nghiệp quy định tại điểm này sử dụng nhà đất không đúng mục đích được giao hoặc cho tổ chức, cá nhân khác thuê thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi và giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý theo quy định hiện hành về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

d) Đối với diện tích nhà đất thuộc diện phải giải toả để thực hiện các dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì giao cho các chủ đầu tư dự án để triển khai thực hiện dự án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp chưa có chủ đầu tư thì giao cho tổ chức phát triển quỹ đất của địa phương quản lý theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 7. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng dụng thì giải quyết như sau:
...
2. Nhà đất mà Nhà nước đã trưng dụng nhưng không thuộc diện được giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với nhà đất đó. Tổ chức, cá nhân đang sử dụng được tiếp tục sử dụng và phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu toàn dân.
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 5 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 5. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã có văn bản quản lý nhưng trên thực tế Nhà nước chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng theo quy định tại Điều 5 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì giải quyết như sau:

1. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất là chủ sở hữu thì phải có giấy tờ chứng minh là chủ sở hữu nhà tại thời điểm Nhà nước có văn bản quản lý làm cơ sở để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với nhà đất đó.

2. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thì không phải thực hiện cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ sở hữu được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà và người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

3. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất có giấy tờ chứng minh việc mua bán, chuyển đổi hoặc tặng cho ngay tình và hiện nhà đất đó không có tranh chấp về sở hữu thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

4. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất là người thừa kế hợp pháp thì phải có di chúc hợp pháp hoặc biên bản phân chia di sản hoặc có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

5. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất là người được Ủy quyền quản lý hợp pháp theo quy định của pháp luật tại thời điểm Ủy quyền thì áp dụng các quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 để giải quyết.

Trong trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất quy định tại khoản này là người được Ủy quyền quản lý không hợp pháp hoặc không có Ủy quyền quản lý thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 để giải quyết.

6. Trường hợp nhà đất quy định tại Điều này thuộc diện phải giải tỏa theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người thuộc diện được công nhận là chủ sở hữu được bồi thường theo quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

7. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất không thuộc diện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này thì áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 để thực hiện xác lập sở hữu toàn dân đối với nhà đất đó. Thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với nhà đất quy định tại khoản này được thực hiện theo quy định tại Điều 3 của Nghị định này.

Xem nội dung VB
Điều 5. Đối với nhà đất đã có văn bản quản lý theo quy định của các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 của cơ quan nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì giải quyết như sau:

1. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng có các giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng dưới đây thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý theo văn bản quản lý trước đây và người đang trực tiếp sử dụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật:

a) Người là chủ sở hữu nhà đất tại thời điểm Nhà nước có văn bản quản lý;

b) Người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;

c) Người mua, nhận tặng cho, chuyển đổi nhà đất ngay tình;

d) Người thừa kế hợp pháp của một trong những người quy định tại các điểm a, b và c khoản này;

đ) Người được các đối tượng quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này uỷ quyền quản lý hợp pháp theo quy định của pháp luật tại thời điểm uỷ quyền;

2. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng là người thuê, mượn, ở nhờ từ trước khi Nhà nước có văn bản quản lý hoặc người đang trực tiếp sử dụng nhưng không có giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân. Người đang trực tiếp sử dụng được tiếp tục sử dụng và phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu toàn dân.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 5 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 5 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 5. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã có văn bản quản lý nhưng trên thực tế Nhà nước chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng theo quy định tại Điều 5 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì giải quyết như sau:

1. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất là chủ sở hữu thì phải có giấy tờ chứng minh là chủ sở hữu nhà tại thời điểm Nhà nước có văn bản quản lý làm cơ sở để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với nhà đất đó.

2. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thì không phải thực hiện cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ sở hữu được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà và người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

3. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất có giấy tờ chứng minh việc mua bán, chuyển đổi hoặc tặng cho ngay tình và hiện nhà đất đó không có tranh chấp về sở hữu thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

4. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất là người thừa kế hợp pháp thì phải có di chúc hợp pháp hoặc biên bản phân chia di sản hoặc có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

5. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất là người được Ủy quyền quản lý hợp pháp theo quy định của pháp luật tại thời điểm Ủy quyền thì áp dụng các quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 để giải quyết.

Trong trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất quy định tại khoản này là người được Ủy quyền quản lý không hợp pháp hoặc không có Ủy quyền quản lý thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 để giải quyết.

6. Trường hợp nhà đất quy định tại Điều này thuộc diện phải giải tỏa theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người thuộc diện được công nhận là chủ sở hữu được bồi thường theo quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

7. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất không thuộc diện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này thì áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 để thực hiện xác lập sở hữu toàn dân đối với nhà đất đó. Thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân đối với nhà đất quy định tại khoản này được thực hiện theo quy định tại Điều 3 của Nghị định này.

Xem nội dung VB
Điều 5. Đối với nhà đất đã có văn bản quản lý theo quy định của các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 của cơ quan nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì giải quyết như sau:

1. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng có các giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng dưới đây thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý theo văn bản quản lý trước đây và người đang trực tiếp sử dụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật:

a) Người là chủ sở hữu nhà đất tại thời điểm Nhà nước có văn bản quản lý;

b) Người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;

c) Người mua, nhận tặng cho, chuyển đổi nhà đất ngay tình;

d) Người thừa kế hợp pháp của một trong những người quy định tại các điểm a, b và c khoản này;

đ) Người được các đối tượng quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này uỷ quyền quản lý hợp pháp theo quy định của pháp luật tại thời điểm uỷ quyền;

2. Trường hợp nhà đất mà người đang trực tiếp sử dụng là người thuê, mượn, ở nhờ từ trước khi Nhà nước có văn bản quản lý hoặc người đang trực tiếp sử dụng nhưng không có giấy tờ chứng minh thuộc một trong các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) hoàn thành thủ tục pháp lý xác lập sở hữu toàn dân. Người đang trực tiếp sử dụng được tiếp tục sử dụng và phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu toàn dân.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 5 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 7 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 7. Đối với nhà ở mà Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn của hộ gia đình, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện:

1. Kiểm tra hồ sơ gốc về nhà ở mà Nhà nước đã trưng dụng, thời hạn trưng dụng ghi trong giấy tờ trưng dụng và xác định chủ sở hữu không thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11.

2. Kiểm tra hiện trạng nhà ở mà Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn. Nếu nhà đất đó không thuộc diện được giao lại theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì phải thông báo để đương sự biết rõ lý do. Nếu nhà ở đó thuộc diện được giao lại nhưng không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giao lại nhà ở đó cho chủ sở hữu.

Trong quyết định giao lại nhà ở phải ghi rõ tên người được giao lại, diện tích nhà ở giao lại, thời gian thực hiện giao lại và cơ quan có trách nhiệm bàn giao nhà ở đó.

3. Trường hợp nhà ở thuộc diện được giao lại nhưng nhà ở đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì chỉ đạo cơ quan có chức năng lập phương án bồi thường theo quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc bồi thường, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

Trong trường hợp bồi thường bằng tiền thì thực hiện thanh toán theo quy định tại Điều 14 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11; trường hợp bồi thường bằng nhà ở khác hoặc giao đất ở khác thì thực hiện giao nhà ở, đất ở theo trình tự, thủ tục về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

4. Trường hợp nhà ở mà Nhà nước đã trưng dụng có thời hạn nhưng đang do các cơ quan Trung ương sử dụng làm trụ sở làm việc thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải phối hợp với các cơ quan này để lập báo cáo cụ thể đối tượng thuộc diện được bồi thường và số tiền phải bồi thường gửi Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Các cơ quan đang sử dụng quỹ nhà đất này có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập báo cáo gửi Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính.

Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính có trách nhiệm cấp kinh phí để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thanh toán cho người thuộc diện được bồi thường.

5. Người được giao lại nhà ở quy định tại khoản 1 Điều này, người được bồi thường bằng nhà ở hoặc giao đất ở quy định tại khoản 3 Điều này phải làm thủ tục để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với nhà đất đó theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 7. Đối với nhà đất mà Nhà nước đã trưng dụng thì giải quyết như sau:

1. Nhà ở của hộ gia đình, cá nhân không thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 mà cơ quan nhà nước đã trưng dụng có thời hạn thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao lại nhà ở đó cho chủ sở hữu, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này;
Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 7 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 8 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 8. Đối với diện tích nhà đất được để lại theo quy định tại Điều 8 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì giải quyết như sau:

1. Trường hợp người đang trực tiếp sử dụng nhà đất có giấy tờ chứng minh tính hợp lệ trong việc sử dụng diện tích nhà đất được để lại diện tích để ở thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

2. Trường hợp nhà đất đó có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài thì việc giải quyết được thực hiện theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở có yếu tố nước ngoài được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.

3. Trường hợp nhà đất đó thuộc diện quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 thì người được công nhận là chủ sở hữu được giải quyết bồi thường theo quy định tại các khoản 3 và 5 Điều 7 của Nghị định này.

Xem nội dung VB
Điều 8. Đối với diện tích nhà đất được để lại không phân biệt người được để lại là ai, diện tích được để lại nhiều hay ít khi Nhà nước thực hiện quản lý theo quy định của chính sách cải tạo nhà đất cho thuê hoặc chính sách quản lý nhà đất của tổ chức, cá nhân thì Nhà nước không quản lý đối với diện tích nhà đất này. Người đang trực tiếp sử dụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 8 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 9 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 9. Việc tạo điều kiện hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với những trường hợp chủ sở hữu có nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng theo quy định tại Điều 10 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 được thực hiện như sau:

1. Người được tạo điều kiện hỗ trợ cải thiện nhà ở quy định tại Điều 10 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 phải là chủ sở hữu có nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng theo các chính sách quản lý và cải tạo nhà đất trước đây và đang thường trú tại tỉnh, thành phố có nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trước ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành.

2. Trên cơ sở đơn đề nghị hỗ trợ cải thiện nhà ở, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan có chức năng quản lý nhà cấp tỉnh kiểm tra hồ sơ gốc về việc Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng nhà đất của người có đơn và chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó sinh sống để kiểm tra, xác nhận thực trạng chỗ ở của họ và đối chiếu với quy định tại Điều 10 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11.

3. Việc xác định thực trạng về chỗ ở của người có đơn phải căn cứ vào nhà ở mà người đó đang trực tiếp sử dụng tại thời điểm có đơn đề nghị hỗ trợ cải thiện nhà ở và phải đáp ứng một trong các điều kiện sau:

a) Nhà ở mà người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều này đang trực tiếp sử dụng là nhà thuê, mượn hoặc ở nhờ của người khác không phải là thành viên trong hộ gia đình (nhà ở này không thuộc quyền sở hữu riêng của các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này).

b) Nhà ở mà người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều này đang trực tiếp sử dụng là nhà ở thuộc sở hữu riêng của họ nhưng diện tích sử dụng bình quân trong hộ gia đình thấp hơn hoặc bằng 6m2/người.

Việc xác định số người cùng sinh sống trong hộ gia đình để tính bình quân diện tích đầu người quy định tại điểm này phải căn cứ vào số nhân khẩu thường trú trong hộ gia đình có xác nhận của cơ quan công an cấp huyện nơi có nhà ở trước thời điểm Nghị quyết số755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành.

4. Sau khi đối chiếu thực trạng về nhà ở với quy định tại Điều 10 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 và quy định tại Điều này, cơ quan có chức năng quản lý nhà cấp tỉnh lập danh sách các trường hợp thuộc diện được hỗ trợ cải thiện nhà ở và đề xuất hình thức hỗ trợ cải thiện nhà ở để trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hỗ trợ.

5. Căn cứ vào tình hình thực tế về nhà ở của địa phương, thực trạng nhà ở của từng trường hợp và đề nghị của cơ quan có chức năng quản lý nhà cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng một trong các hình thức hỗ trợ sau:

a) Giải quyết cho họ được thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước.

b) Giải quyết cho họ được mua nhà ở trả góp theo quy định về bán nhà ở cho người tái định cư hoặc cho họ được mua nhà ở theo quy định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Xem nội dung VB
Điều 10. Đối với những trường hợp Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng nhà đất theo các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, chủ sở hữu chưa có chỗ ở hoặc có chỗ ở nhưng diện tích bình quân trong hộ gia đình thấp hơn hoặc bằng 6m2/người thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bố trí để họ được thuê nhà ở hoặc được mua nhà ở trả góp.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 9 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 10 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005
Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 23/2003/QH11 và Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
...
Điều 10. Việc lập kinh phí để thanh toán theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 được thực hiện như sau:

1. Đối với nhà đất do địa phương quản lý, sử dụng mà thuộc diện phải thanh toán thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan tài chính cấp tỉnh phối hợp với cơ quan có chức năng quản lý nhà cùng cấp tổng hợp cụ thể từng trường hợp và lập báo cáo kinh phí thanh toán để trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nguồn kinh phí thanh toán quy định tại khoản này được lấy từ ngân sách của địa phương.

Trong trường hợp địa phương không đủ kinh phí để thanh toán thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải xác định cụ thể số kinh phí đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ kèm theo danh sách các trường hợp thuộc diện được thanh toán và số tiền phải thanh toán còn thiếu gửi Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

2. Đối với nhà đất do cơ quan trung ương quản lý, sử dụng mà thuộc diện phải thanh toán thì các cơ quan này phải lập báo cáo cụ thể các trường hợp phải thanh toán và số tiền phải thanh toán gửi Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính có trách nhiệm cấp kinh phí để các cơ quan đó thực hiện thanh toán cho người thuộc diện được thanh toán.

3. Đối với nhà đất do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp quản lý, sử dụng mà thuộc diện phải thanh toán thì sử dụng kinh phí của các tổ chức đó để thanh toán. Trong trường hợp các tổ chức của Trung ương không đủ kinh phí để thanh toán thì phải lập báo cáo cụ thể từng trường hợp và số tiền còn thiếu gửi Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính xem xét, tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ việc thanh toán. Đối với tổ chức của địa phương thì lập báo cáo đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Trong trường hợp ngân sách nhà nước thanh toán thì nhà đất đó thuộc sở hữu toàn dân, các tổ chức đang quản lý, sử dụng phải thực hiện quản lý, sử dụng theo quy định về sử dụng nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước.

4. Căn cứ vào đề nghị hỗ trợ kinh phí của các địa phương, các cơ quan Trung ương và các tổ chức quy định tại Điều này, Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính có trách nhiệm kiểm tra, tổng hợp và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

5. Đối với trường hợp do chủ đầu tư dự án hoặc tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện thanh toán thì phải xác định cụ thể các trường hợp được thanh toán theo quy định của Nghị quyết số 755/2005/UBTVQH11 và xác định cụ thể mức kinh phí phải thanh toán trong tổng chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trong trường hợp chưa có kinh phí giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án đầu tư phải ứng trước kinh phí từ ngân sách của địa phương để thực hiện thanh toán. Số kinh phí này được hoàn trả khi có kinh phí giải phóng mặt bằng.

6. Các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ thanh toán phải thực hiện thanh toán theo đúng quy định tại Nghị quyết số 755/2005/UBTVQH11 và Nghị định này.

Xem nội dung VB
Điều 11. Nguồn kinh phí để thực hiện Nghị quyết này được quy định như sau:

1. Ngân sách trung ương thanh toán đối với trường hợp nhà đất đang do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp của trung ương quản lý, sử dụng hoặc nhà đất đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do các cơ quan của trung ương quản lý, sử dụng;

2. Ngân sách địa phương thanh toán đối với trường hợp nhà đất đang do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp của địa phương quản lý, sử dụng hoặc nhà đất đang được sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do các cơ quan của địa phương quản lý, sử dụng hoặc nhà đất mà Nhà nước đã bố trí cho người khác sử dụng ổn định hoặc đã chuyển quyền sở hữu cho người khác theo quy định của pháp luật.

Trường hợp ngân sách địa phương quy định tại khoản này không đủ để thanh toán thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải xác định cụ thể số kinh phí để đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ;

3. Chủ đầu tư các dự án thực hiện thanh toán đối với các trường hợp nhà đất phải giải tỏa để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế hoặc chỉnh trang đô thị;

4. Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế thực hiện thanh toán đối với trường hợp nhà đất mà Nhà nước đã trưng mua và nhà ở thuộc diện được giao lại nhưng hiện do các tổ chức này quản lý, sử dụng.

Trong trường hợp tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp quy định tại khoản này không đủ kinh phí để thanh toán thì phải lập báo cáo cụ thể số kinh phí để đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ nếu là tổ chức của trung ương, đề nghị ngân sách địa phương hỗ trợ nếu là tổ chức của địa phương;

5. Bộ Xây dựng tổng hợp nhu cầu kinh phí thanh toán quy định tại Nghị quyết này để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp phân bổ ngân sách hàng năm của Quốc hội.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 10 Nghị định 127/2005/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/11/2005