Mục này được hướng dẫn bởi Thông tư liên tịch 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA có hiệu lực từ ngày 20/7/2000 (VB hết hiệu lực: 08/10/2021)
Để thi hành đúng các quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 "Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian" và các quy định tại Mục 2 Nghị quyết số 32 của Quốc hội về việc áp dụng Bộ luật hình sự kể từ ngày 01-7-2000, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an thống nhất hướng dẫn một số điểm sau đây:
1. Khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện". Việc thi hành khoản 1 này đã được quy định tại điểm a Mục 2 Nghị quyết số 32 của Quốc hội; cụ thể là: "tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01-7-2000".
2. Khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễm hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành"; cụ thể là theo điểm c Mục 2 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, thì các quy định này "không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản pháp luật hình sự trước đây để giải quyết". Khi thi hành các quy định này cần chú ý một số điểm sau đây:
...
3. Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành".
...
4. Đối với những tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điểm b6 Mục 2 và tại các điểm từ d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự.
...
5. Trong trường hợp một người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội nào đó với nhiều hành vi trong đó có hành vi được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000, có hành vi được thực hiện kể từ 0 giờ 00 ngày 01-7-2000, mà điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt nặng hơn, thì vẫn áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng khi quyết định hình phạt cần cân nhắc số lượng và tính chất của các hành vi được thực hiện trước cũng như các hành vi được thực hiện kể từ 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 để quyết định một mức hình phạt cho thoả đáng đối với tất cả các hành vi đó.
6. Trong trường hợp một người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội, trong đó có tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000, có tội được thực hiện kể từ 0 giờ 00 ngày 01-7-2000, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự được thực hiện theo các hướng dẫn tại các mục 1, 2, 3, 4 và 5 Thông tư này và việc tổng hợp hình phạt được thực hiện theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999; tuy nhiên cần chú ý:
...
7. Đối với những hành vi phạm tội được thực hiện và bị xét xử trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 có nội dung khác so với các điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000, thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999, tại các điểm b và c Mục 2 Nghị quyết số 32 của Quốc hội và các hướng dẫn tại Thông tư này.
8. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 20 tháng 7 năm 2000 và thay thế các văn bản trước đây của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn thi hành quy định của các văn bản pháp luật hình sự trước đây về hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian.
Xem nội dung VB2. Kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2000, Bộ luật hình sự được áp dụng như sau:
a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000;
b) Các điều luật xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích;
c) Các điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản pháp luật hình sự trước đây để giải quyết;
d) Đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 và đã có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự này có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2000, thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c Mục này.
Mục này được hướng dẫn bởi Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 có hiệu lực từ ngày 01/02/2000
Để triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999 của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật Hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32);
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
...
1. Đối với những người bị xử phạt tử hình trước ngày công bố Bộ luật Hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 1999) về những tội mà Bộ luật Hình sự này đã bỏ hình phạt tử hình nhưng chưa thi hành án, thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao áp dụng điểm b Mục 3 Nghị quyết số 32 chuyển hình phạt tử hình xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật Hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó.
2. Đối với phụ nữ bị xử phạt tử hình trước ngày công bố Bộ luật Hình sự năm 1999 về những tội mà Bộ luật Hình sự này vẫn giữ hình phạt tử hình nhưng chưa thi hành án, thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao áp dụng điểm b Mục 3 Nghị quyết số 32 chuyển hình phạt tử hình xuống tù chung thân trong trường hợp họ đang có con (con đẻ, con nuôi) dưới 36 tháng tuổi hoặc đang có thai.
3. Tuỳ từng giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải áp dụng điểm c hoặc điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 và các điều tương ứng của Bộ luật Tố tụng hình sự để quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án đối với những người sau đây:
a. Người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm;
b. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó đã thực hiện.
4. Việc miễn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án trước ngày công bố Bộ luật Hình sự năm 1999 về hành vi mà Bộ luật Hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm và đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội bị kết án trước ngày công bố Bộ luật Hình sự năm 1999 về những tội mà Bộ luật Hình sự này quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù, được thực hiện như sau:
a. Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, thì cơ quan thi hành án phạt tù hoặc cơ quan thi hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đề nghị và Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại;
b. Đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thì cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục đề nghị và Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại;
c. Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế, thì chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt đề nghị và Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại;
d. Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc đề nghị và Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, thời hạn tước một số quyền công dân còn lại;
đ. Đối với người bị xử phạt tù, xử phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc đề nghị và Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
e. Đối với người bị xử phạt bằng các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc đề nghị và Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
5. Người được nêu tại Mục 4 Nghị quyết này đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt, thì đương nhiên được xoá án tích; nếu họ có yêu cầu, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đối với họ cấp giấy chứng nhận xoá án tích cho họ.
6. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.
7. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 02 năm 2000.
Xem nội dung VB3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm những tội mà Bộ luật hình sự này đã bỏ hình phạt tử hình, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với những người được nêu tại điểm a Mục này nhưng chưa thi hành, thì không thi hành nữa và được chuyển xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó; trong trường hợp điều luật mới vẫn giữ hình phạt tử hình, thì đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hình phạt tử hình đã tuyên được chuyển thành tù chung thân;
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
d) Không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Những người đã chấp hành xong hình phạt về một tội mà Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm nữa hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo điểm c và điểm d Mục này, thì đương nhiên được xoá án tích.
Mục này được hướng dẫn bởi Công văn 10/2000/KHXX năm 2000 có hiệu lực từ ngày 10/01/2000
Trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật hình sự này, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện một số điểm sau đây, kể từ ngày Bộ luật hình sự được công bố:
1. Trong mọi trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 1999 đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội đó; cụ thể là:
(bảng biểu, xem nội dung chi tiết tại văn bản)
Trong các trường hợp trên đây, nếu khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà xét thấy hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng và theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 phải xử phạt người phạm tội với mức hình phạt cao nhất là tử hình, thì nay áp dụng điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999 để xử phạt người phạm tội với mức hình phạt cao nhất mà điều luật tương ứng đó quy định.
2. Trong mọi trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử về tội phạm mà Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn quy định hình phạt tử hình.
3. Trong mọi trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên đối với người phạm tội được nêu tại điểm a mục 3 của Nghị quyết và bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng chưa thi hành, thì mặc dù đã có quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình (trong trường hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm án tử hình) hoặc đã có các quy định không kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (trong trường hợp người bị kết án không làm đơn xin ân giảm án tử hình), Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm cho hoãn thi hành án và báo cáo lên Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo tinh thần quy định tại khoản 5 Điều 229 Bộ luật hình sự.
4. Khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm một vụ án hình sự cần kiểm tra xem tội phạm mà bị cáo bị truy tố hoặc bị xét xử, thì Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định là tội phạm nữa hay không; nếu Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm, thì áp dụng điểm c, Mục 3 của Nghị quyết ra quyết định đình chỉ vụ án đối với họ.
5. Khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm đối với bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, cần kiểm tra xem tội phạm mà bị cáo bị truy tố hoặc bị xét xử, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là bao nhiêu năm tù; nếu xét thấy việc truy tố, xét xử trước đó theo khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt đó từ 7 năm tù trở xuống, thì áp dụng điểm c Mục 3 của Nghị quyết ra quyết định đình chỉ vụ án đối với họ.
6. Đối với người bị kết án thuộc các trường hợp quy định tại các điểm c và d Mục 3 của Nghị quyết đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hay chưa chấp hành hình phạt, thì tạm thời chưa ra quyết định thi hành án.
Xem nội dung VB3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm những tội mà Bộ luật hình sự này đã bỏ hình phạt tử hình, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với những người được nêu tại điểm a Mục này nhưng chưa thi hành, thì không thi hành nữa và được chuyển xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó; trong trường hợp điều luật mới vẫn giữ hình phạt tử hình, thì đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hình phạt tử hình đã tuyên được chuyển thành tù chung thân;
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
d) Không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Những người đã chấp hành xong hình phạt về một tội mà Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm nữa hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo điểm c và điểm d Mục này, thì đương nhiên được xoá án tích.
Mục này được hướng dẫn bởi cái Mục 1, 2, 3, 4 và 5 Thông tư liên bộ 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA có hiệu lực từ ngày 27/6/2000 (VB hết hiệu lực: 08/10/2021)
Thông tư liên bộ 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10
Để thi hành đúng các quy định tại Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội và các quy định tại Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an thống nhất hướng dẫn một số điểm sau đây, kể từ ngày Bộ luật Hình sự được công bố (ngày 4-1-2000):
1. Trong mọi trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm một trong những tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội đó; cụ thể là các tội sau đây:
...
2. Khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang có con (con đẻ, con nuôi) dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử về tội phạm mà Bộ luật Hình sự năm 1999 vẫn quy định hình phạt tử hình.
...
3. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 quy định: "Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự này không quy định là tội phạm...." Hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm bao gồm:
...
4. Điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội quy định: "không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năn tù..."; do đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự mà có bị can, bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án cần kiểm tra xem về tội phạm mà người chưa thành niên đó bị khởi tố, truy tố hoặc xét xử, thì Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là bao nhiêu năm tù; nếu Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt đó là 7 năm tù trở xuống, thì đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án.
5. Việc đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án đối với các trường hợp nêu tại Mục 3 và Mục 4 Thông tư này được thực hiện như sau:
Xem nội dung VB3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm những tội mà Bộ luật hình sự này đã bỏ hình phạt tử hình, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với những người được nêu tại điểm a Mục này nhưng chưa thi hành, thì không thi hành nữa và được chuyển xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó; trong trường hợp điều luật mới vẫn giữ hình phạt tử hình, thì đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hình phạt tử hình đã tuyên được chuyển thành tù chung thân;
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
d) Không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Những người đã chấp hành xong hình phạt về một tội mà Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm nữa hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo điểm c và điểm d Mục này, thì đương nhiên được xoá án tích.
Điểm này được hướng dẫn bởi Công văn 34/2000/KHXX năm 2000 có hiệu lực từ ngày 20/3/2000
Sau khi nghiên cứu Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, Toà án nhân dân Tối cao có ý kiến như sau:
1. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32) quy định: "không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là phạm tội, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được kiểm tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ...".
Trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn những hành vi cụ thể nào mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã họp, thảo luận và quyết định cần hiểu thống nhất hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, đó là:
- Hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thành một tội danh cụ thể trong một điều luật cụ thể, nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa và đã bỏ tội danh này; Ví dụ: hành vi vắng mặt trái phép được quy định tại Điều 261 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội "Vắng mặt trái phép", nay hành vi này không bị coi là tội phạm nữa nên trong Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tội danh này.
- Hành vi mà theo Bộ luật hình sự năm 1985 là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình sự này, nay hành vi này vẫn được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, thì cần phải có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc, song thực tế thì không có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc đó; ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng theo Bộ luật hình sự năm 1985 có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 132 hoặc theo Điều 155, nay theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm, nếu thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đối chiếu với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000, thì theo quy định tại Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1985, người nào có hành vi đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Đánh bạc". Nay theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999, thì người có hành vi đánh bạc đó phải thuộc một trong các trường hợp sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999:
- Tiền hay hiện vật có giá trị lớn;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 1999;
- Đã bị kết án về một trong các tội "Đánh bạc", "Tổ chức đánh bạc" hoặc "Gá bạc", nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Vì vậy, nếu hành vi đánh bạc xảy ra tại thời điểm hiện nay không thuộc một trong ba trường hợp nêu trên thì theo Bộ luật hình sự năm 1999 không coi là tội phạm nữa mà được áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 để đình chỉ vụ án.
2. Việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp này được quy định tại Mục 3 Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229); cụ thể là: "tuỳ từng giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải áp dụng điểm c hoặc điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 và các điều tương ứng của Bộ luật hình sự để quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án...". Như vậy, trong trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án, thì tuỳ theo từng trường hợp mà việc đình chỉ vụ án có thể được thực hiện như sau:
a- Nếu Viện kiểm sát có Công văn xin được rút lại hồ sơ để xem xét trách nhiệm hình sự của bị can, thì Toà án ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 143b Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
b- Nếu viện kiểm sát có Công văn (hoặc quyết định) rút quyết định truy tố và yêu cầu Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 156 Bộ luật hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
c- Nếu viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và điểm 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
Cần chú ý rằng trong các trường hợp trên là chỉ đình chỉ vụ án về mặt hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, còn có các vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả xử lý hành chính đối với người thực hiện hành vi đó) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
3. Về tình tiết "tiền hay hiện vật có giá trị lớn" thì cần có sự hướng dẫn thống nhất của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương. Toà án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về một số tình tiết cấu thành tội phạm, tình tiết định khung tăng nặng được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có tình tiết này.
Xem nội dung VB3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
...
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
Điểm này được hướng dẫn bởi Công văn 34/2000/KHXX năm 2000 có hiệu lực từ ngày 20/3/2000
Sau khi nghiên cứu Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, Toà án nhân dân Tối cao có ý kiến như sau:
1. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32) quy định: "không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là phạm tội, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được kiểm tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ...".
Trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn những hành vi cụ thể nào mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã họp, thảo luận và quyết định cần hiểu thống nhất hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, đó là:
- Hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thành một tội danh cụ thể trong một điều luật cụ thể, nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa và đã bỏ tội danh này; Ví dụ: hành vi vắng mặt trái phép được quy định tại Điều 261 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội "Vắng mặt trái phép", nay hành vi này không bị coi là tội phạm nữa nên trong Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tội danh này.
- Hành vi mà theo Bộ luật hình sự năm 1985 là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình sự này, nay hành vi này vẫn được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, thì cần phải có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc, song thực tế thì không có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc đó; ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng theo Bộ luật hình sự năm 1985 có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 132 hoặc theo Điều 155, nay theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm, nếu thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đối chiếu với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000, thì theo quy định tại Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1985, người nào có hành vi đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Đánh bạc". Nay theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999, thì người có hành vi đánh bạc đó phải thuộc một trong các trường hợp sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999:
- Tiền hay hiện vật có giá trị lớn;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 1999;
- Đã bị kết án về một trong các tội "Đánh bạc", "Tổ chức đánh bạc" hoặc "Gá bạc", nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Vì vậy, nếu hành vi đánh bạc xảy ra tại thời điểm hiện nay không thuộc một trong ba trường hợp nêu trên thì theo Bộ luật hình sự năm 1999 không coi là tội phạm nữa mà được áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 để đình chỉ vụ án.
2. Việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp này được quy định tại Mục 3 Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229); cụ thể là: "tuỳ từng giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải áp dụng điểm c hoặc điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 và các điều tương ứng của Bộ luật hình sự để quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án...". Như vậy, trong trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án, thì tuỳ theo từng trường hợp mà việc đình chỉ vụ án có thể được thực hiện như sau:
a- Nếu Viện kiểm sát có Công văn xin được rút lại hồ sơ để xem xét trách nhiệm hình sự của bị can, thì Toà án ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 143b Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
b- Nếu viện kiểm sát có Công văn (hoặc quyết định) rút quyết định truy tố và yêu cầu Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 156 Bộ luật hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
c- Nếu viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và điểm 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
Cần chú ý rằng trong các trường hợp trên là chỉ đình chỉ vụ án về mặt hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, còn có các vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả xử lý hành chính đối với người thực hiện hành vi đó) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
3. Về tình tiết "tiền hay hiện vật có giá trị lớn" thì cần có sự hướng dẫn thống nhất của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương. Toà án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về một số tình tiết cấu thành tội phạm, tình tiết định khung tăng nặng được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có tình tiết này.
Xem nội dung VB3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
...
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
Điểm này được hướng dẫn bởi Công văn 34/2000/KHXX năm 2000 có hiệu lực từ ngày 20/3/2000
Sau khi nghiên cứu Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, Toà án nhân dân Tối cao có ý kiến như sau:
1. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32) quy định: "không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là phạm tội, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được kiểm tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ...".
Trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn những hành vi cụ thể nào mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã họp, thảo luận và quyết định cần hiểu thống nhất hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, đó là:
- Hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thành một tội danh cụ thể trong một điều luật cụ thể, nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa và đã bỏ tội danh này; Ví dụ: hành vi vắng mặt trái phép được quy định tại Điều 261 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội "Vắng mặt trái phép", nay hành vi này không bị coi là tội phạm nữa nên trong Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tội danh này.
- Hành vi mà theo Bộ luật hình sự năm 1985 là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình sự này, nay hành vi này vẫn được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, thì cần phải có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc, song thực tế thì không có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc đó; ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng theo Bộ luật hình sự năm 1985 có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 132 hoặc theo Điều 155, nay theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm, nếu thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đối chiếu với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000, thì theo quy định tại Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1985, người nào có hành vi đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Đánh bạc". Nay theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999, thì người có hành vi đánh bạc đó phải thuộc một trong các trường hợp sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999:
- Tiền hay hiện vật có giá trị lớn;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 1999;
- Đã bị kết án về một trong các tội "Đánh bạc", "Tổ chức đánh bạc" hoặc "Gá bạc", nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Vì vậy, nếu hành vi đánh bạc xảy ra tại thời điểm hiện nay không thuộc một trong ba trường hợp nêu trên thì theo Bộ luật hình sự năm 1999 không coi là tội phạm nữa mà được áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 để đình chỉ vụ án.
2. Việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp này được quy định tại Mục 3 Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229); cụ thể là: "tuỳ từng giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải áp dụng điểm c hoặc điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 và các điều tương ứng của Bộ luật hình sự để quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án...". Như vậy, trong trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án, thì tuỳ theo từng trường hợp mà việc đình chỉ vụ án có thể được thực hiện như sau:
a- Nếu Viện kiểm sát có Công văn xin được rút lại hồ sơ để xem xét trách nhiệm hình sự của bị can, thì Toà án ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 143b Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
b- Nếu viện kiểm sát có Công văn (hoặc quyết định) rút quyết định truy tố và yêu cầu Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 156 Bộ luật hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
c- Nếu viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và điểm 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
Cần chú ý rằng trong các trường hợp trên là chỉ đình chỉ vụ án về mặt hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, còn có các vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả xử lý hành chính đối với người thực hiện hành vi đó) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
3. Về tình tiết "tiền hay hiện vật có giá trị lớn" thì cần có sự hướng dẫn thống nhất của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương. Toà án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về một số tình tiết cấu thành tội phạm, tình tiết định khung tăng nặng được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có tình tiết này.
Xem nội dung VB3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
...
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;