QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
32/1999/NQ-QH10
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 12 năm 1999
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
VIỆC THI HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều 84 của Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
QUYẾT NGHỊ
1. Bộ luật hình sự của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000.
Bộ luật hình sự này thay thế Bộ
luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985 và các luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng
12 năm 1989, ngày 12 tháng 8 năm 1991, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 10
tháng 5 năm 1997.
Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, tự mình hoặc phối hợp tổ chức việc rà soát các văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật hình sự hiện hành để huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản
mới; đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự này, bảo đảm
hiệu lực của Bộ luật từ ngày 01 tháng 7 năm 2000.
2. Kể từ ngày
01 tháng 7 năm 2000, Bộ luật hình sự được áp dụng như sau:
a) Tất cả các điều
khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm
2000;
b) Các điều luật
xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình
tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người
phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ
00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều
tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành
hình phạt, xoá án tích;
c) Các điều luật
quy định một tội phạm mới, một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình
tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không có lợi
cho người phạm tội, thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước
0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị
điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp
hành hình phạt, xoá án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng
của các văn bản pháp luật hình sự trước đây để giải quyết;
d) Đối với những
hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000 và đã có bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thì không được căn cứ vào
những quy định của Bộ luật hình sự này có nội dung khác so với các điều luật đã
được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng
nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2000, thì
việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c Mục này.
3. Kể từ ngày Bộ
luật hình sự này được công bố:
a) Không áp dụng
hình phạt tử hình khi xét xử người phạm những tội mà Bộ luật hình sự này đã bỏ
hình phạt tử hình, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử
hình đã tuyên đối với những người được nêu tại điểm a Mục này nhưng chưa thi
hành, thì không thi hành nữa và được chuyển xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật
hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó; trong trường hợp điều luật mới
vẫn giữ hình phạt tử hình, thì đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới
36 tháng tuổi, hình phạt tử hình đã tuyên được chuyển thành tù chung thân;
c) Không xử lý
về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định
là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án
đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị
kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ
được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án
chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp
hành toàn bộ hình phạt;
d) Không xử lý
về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội
phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều
tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án
và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được
miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình
phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Những người
đã chấp hành xong hình phạt về một tội mà Bộ luật hình sự này không quy định là
tội phạm nữa hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn
lại theo điểm c và điểm d Mục này, thì đương nhiên được xoá án tích.
4. Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ
luật hình sự này trong cán bộ và nhân dân nhằm phát huy tác dụng của Bộ luật
hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trên mọi lĩnh vực quản lý nhà nước
và trong đời sống xã hội.
Nghị quyết này đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày
21tháng 12 năm 1999.