Nghị quyết 143/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2022

Số hiệu 143/NQ-CP
Ngày ban hành 04/11/2022
Ngày có hiệu lực 04/11/2022
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Phạm Bình Minh
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 143/NQ-CP

Hà Nội, ngày 04 tháng 11 năm 2022

 

NGHỊ QUYẾT

PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 10 NĂM 2022

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;

Trên cơ sở thảo luận của các Thành viên Chính phủ, ý kiến các đại biểu dự họp và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2022, tổ chức vào ngày 29 tháng 10 năm 2022,

QUYẾT NGHỊ:

I. Về tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2022; nhiệm vụ, giải pháp những tháng cuối năm 2022

Chính phủ thống nhất đánh giá: Trong tháng 10, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, ngày càng phức tạp; các yếu tố rủi ro gia tăng cả về mức độ, phạm vi, tính chất trên quy mô toàn cầu; lạm phát, lãi suất tăng, đồng USD tăng giá dẫn đến nhiều đồng tiền chủ chốt khác mất giá; suy giảm tăng trưởng và nguy cơ suy thoái kinh tế rõ nét hơn... Trong khi đó, nền kinh tế nước ta có độ mở cao và khả năng chống chịu trước các cú sốc bên ngoài có hạn; vì vậy, công tác chỉ đạo, điều hành tiếp tục được tập trung cao độ, nỗ lực ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình quốc tế, trong nước; vừa xử lý những nhiệm vụ, công việc thường xuyên ngày càng nhiều, áp lực lớn; vừa giải quyết những vấn đề tồn đọng kéo dài, phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn.

Trước bối cảnh đó, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự chủ động, tích cực đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự chung sức, đồng lòng của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, sự quan tâm giúp đỡ của bạn bè quốc tế; chỉ đạo điều hành quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, kịp thời xây dựng và triển khai các chính sách phù hợp, hiệu quả ứng phó những vấn đề mới phát sinh của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương, tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2022 tiếp tục phục hồi tích cực và đạt những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.

Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế phục hồi tích cực, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm trong điều kiện gặp nhiều khó khăn. Thị trường tiền tệ, mặt bằng lãi suất, tỷ giá cơ bản giữ được ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 10 tháng tăng 2,89%. Thu ngân sách nhà nước 10 tháng ước đạt 103,7% dự toán, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2021. Kim ngạch xuất nhập khẩu 10 tháng đạt 616,24 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ, xuất siêu ước đạt 9,4 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện đạt 17,45 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ. Tiếp tục quyết liệt xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, dự án thua lỗ kéo dài.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) 10 tháng tăng 9% so với cùng kỳ. Nông nghiệp phát triển ổn định; an ninh lương thực được bảo đảm, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt khoảng 45 tỷ USD, xuất khẩu gạo đạt trên 6 triệu tấn. Thương mại, dịch vụ, du lịch phục hồi tích cực; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 20,2% so với cùng kỳ. Hoạt động sản xuất, kinh doanh có nhiều khởi sắc. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường 10 tháng đạt trên 178,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 38,3% so với cùng kỳ. Nhiều tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá tích cực về tình hình kinh tế của Việt Nam.

Công tác phòng, chống dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được chú trọng. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thể dục, thể thao được tiếp tục diễn ra sôi động, phát huy, bảo tồn giá trị văn hóa của dân tộc. Thị trường lao động tiếp tục phục hồi; công tác an sinh xã hội được triển khai thiết thực, hiệu quả, kịp thời; đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; công tác bảo vệ trẻ em, vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới được quan tâm. Công tác cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; hoạt động đối ngoại được thực hiện hiệu quả, Việt Nam đã trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, tiếp tục khẳng định vai trò, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta còn những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều thách thức. Sức ép lạm phát lớn; giá nguyên vật liệu đầu vào biến động mạnh; xảy ra tình trạng thiếu hụt cục bộ nguồn cung xăng dầu. Giải ngân vốn đầu tư công và triển khai một số chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác lập quy hoạch còn chậm. Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro; cơ cấu lại một số tổ chức tín dụng yếu kém còn nhiều khó khăn; nợ xấu có xu hướng tăng. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; còn thiếu hụt lao động cục bộ, nhất là lao động chất lượng cao trong một số ngành, lĩnh vực, địa bàn. Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn. Tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động còn thấp; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc, chuyển việc, vẫn còn tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế tại một số cơ sở khám chữa bệnh. Một số vụ việc tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, xâm hại phụ nữ, trẻ em, cháy nổ, lừa đảo qua mạng còn diễn biến phức tạp...

Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường cả về chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội; xung đột Nga - U-crai-na kéo dài; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại; nguy cơ suy thoái kinh tế và rủi ro về tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, lương thực gia tăng. Ở trong nước, khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ và thuận lợi. Sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất tăng; dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, bão lũ tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất, kinh doanh.

Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục phối hợp chặt chẽ, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực; theo dõi sát tình hình, phản ứng chính sách kịp thời, chính xác, không chuyển trạng thái đột ngột; tận dụng tốt thời cơ, càng khó khăn, phức tạp, càng có nhiều thách thức thì càng phải bình tĩnh, tự tin, sáng suốt để tranh thủ các yếu tố thuận lợi, hóa giải các khó khăn, thách thức, phát huy đoàn kết, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, kiên trì mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; trong đó, tập trung vào những nội dung sau:

1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương:

a) Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác; trong đó, điều hành lãi suất, tỷ giá, tín dụng linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình, có biện pháp can thiệp thị trường ngoại hối khi cần thiết theo quy định, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ và hệ thống các tổ chức tín dụng; có giải pháp hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, chuyển tài sản bằng tiền đồng sang ngoại tệ, ngăn chặn tình trạng đô la hóa và vàng hóa trong nền kinh tế.

b) Cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Kịp thời nắm tình hình, có giải pháp phù hợp hỗ trợ, chỉ đạo các ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn cho thương nhân nhập khẩu xăng dầu, than, góp phần tháo gỡ khó khăn, bảo đảm an ninh năng lượng.

c) Tăng cường công tác thông tin, truyền thông, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, củng cố niềm tin thị trường, tâm lý của nhà đầu tư, người dân và doanh nghiệp.

2. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương:

a) Tập trung triển khai thực hiện Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, ổn định thị trường trái phiếu doanh nghiệp, báo cáo Chính phủ để sửa đổi (nếu cần thiết). Giao Phó Thủ tướng Lê Minh Khái chỉ đạo xử lý.

b) Có giải pháp xử lý kịp thời các khó khăn trong ngắn hạn liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp và thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh, hiệu quả, bền vững trong trung hạn, dài hạn; sớm báo cáo đánh giá từng loại trái phiếu, việc đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ trong Quý IV/2022 và năm 2023, đề xuất giải pháp xử lý chủ động, phù hợp, hiệu quả với diễn biến tình hình.

c) Chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong việc điều chỉnh ngay các chi phí liên quan trong công thức tính giá cơ sở xăng dầu (chi phí đưa xăng dầu từ nước ngoài về cảng Việt Nam, chi phí bảo hiểm, chi phí kinh doanh định mức...) cho phù hợp và sát với tình hình thực tế; xác định cơ sở pháp lý và thẩm quyền để đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định (nếu có).

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương theo dõi tình hình vốn FDI đăng ký mới, có biện pháp hiệu quả thu hút vốn FDI và thúc đẩy kết nối doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Khẩn trương hoàn thiện, trình Chính phủ xem xét, ban hành Chương trình Quốc gia về tăng năng suất lao động trong tháng 12 năm 2022.

4. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương:

a) Thực hiện quyết liệt các giải pháp tiếp tục mở rộng, đa dạng hóa thị trường, sản phẩm xuất khẩu và chuỗi cung ứng, nhất là đối với các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế. Tổ chức thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và tiếp tục thúc đẩy ký kết các FTA.

b) Đổi mới các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số; tăng cường công tác thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp về thị trường, mặt hàng xuất khẩu.

[...]