CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 08/1998/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 16
tháng 7 năm 1998
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM
1998
Trong 2 ngày 29 - 30 tháng 6 năm
1998, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 6 năm 1998 đã quyết định một số chủ
trương, biện pháp cần tập trung chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế,
xã hội và Ngân sách Nhà nước trong 6 tháng cuối năm 1998 như sau:
A. TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 6 THÁNG ĐẦU NĂM,TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU
Do dự báo được tình hình khó
khăn trong năm 1998, nên trong 6 tháng đầu năm, cùng với việc tiếp tục các biện
pháp khắc phục hậu quả thiên tai, Chính phủ đã tập trung sự chỉ đạo điều hành
vào việc tháo gỡ những khó khăn, ách tắc trong đầu tư phát triển và trong sản
xuất kinh doanh; tăng cường các giải pháp hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp,
tạo điều kiện thuận lợi hơn để phát huy nội lực theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị BCH Trung ương lần thứ tư (khoá VIII). Đồng thời xử lý một cách linh hoạt,
thận trọng một số vấn đề về tài chính - tiền tệ nhằm hạn chế thấp nhất sự tác động
bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và địa phương được
cải tiến một bước.
Những cố gắng nêu trên đã góp phần
cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân khắc phục khó khăn; hạn chế sự giảm sút của
sản xuất kinh doanh; duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá (GDP tăng 6,64%); ổn
định kinh tế vĩ mô; giữ vững an ninh quốc phòng; các lĩnh vực giáo dục, đào tạo,
văn hoá, xã hội, y tế... đều có bước tiến bộ.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế -
xã hội của nước ta đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn:
Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh
tế chậm lại; sức mua xã hội và thị trường xuất khẩu bị co hẹp, hàng hoá nước ta
bị cạnh tranh gay gắt hơn; hậu quả nặng nề của thiên tai còn tiếp tục ảnh hưởng
đến sản xuất nông nghiệp; việc huy động vốn trong nước và nước ngoài cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, vốn đầu tư thuộc nguồn Ngân
sách Nhà nước còn hạn hẹp, vốn đầu tư của các doanh nghiệp và của dân cư đều đạt
thấp so với dự kiến, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh; một số công trình, dự án
cấp bách do không đủ vốn để thực hiện đúng tiến độ, do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế của năm nay và các năm sau. Mức thu ngân sách đạt thấp,
trong khi các yêu cầu chi tăng lên làm cho ngân sách thêm căng thẳng; các tệ nạn
xã hội chưa được khắc phục rõ nét; việc làm cho người lao động đang là một
trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải tập trung giải quyết.
Tình hình trên do nhiều nguyên.
Ngoài ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và sự tác động bất lợi của cuộc khủng khoảng
kinh tế khu vực thì những yếu kém chủ quan đóng vai trò rất quan trọng. Hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp và chưa có chuyển biến rõ nét; việc
cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong nước, nâng
cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế để phát triển sản xuất kinh doanh... còn
chậm, chưa tạo được bước chuyển biến căn bản. Các ách tắc trong hệ thống thể chế,
thủ tục hành chính vẫn còn lớn. Một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ ở cấp thừa
hành còn gây phiền hà, nhũng nhiễu; làm cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của
dân và doanh nghiệp. Việc thực hiện các chính sách, quy định của Nhà nước, ngay
cả các quy định đúng đắn, ban hành kịp thời, có lúc, có nơi vẫn không tổ chức
triển khai một cách nghiêm túc.
Những yếu kém chủ quan trên đây
cần phải được tập trung khắc phục trong thời gian tới.
B. CÁC GIẢI
PHÁP LỚN ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 1998
Mục tiêu quan trọng nhất của
công tác chỉ đạo, điều hành trong những tháng tới là tạo cho được động lực phát
triển mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân; phát huy cao độ các nguồn lực trong
nước; thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài; khắc phục các yếu kém
trong tổ chức thực hiện để vượt qua khó khăn, thách thức, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội. Theo tinh thần đó, Chính phủ quyết định một số chủ trương, biện
pháp lớn sau đây:
I. VỀ NÔNG
NGHIỆP
1. Tập trung chỉ đạo sát sao
khâu chăm sóc, thu hoạch lúa hè thu và triển khai sản xuất vụ mùa, phấn đấu đạt
chỉ tiêu sản lượng lương thực đã đề ra.
2. Chỉ đạo chặt chẽ công tác xuất
khẩu gạo, bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống; đồng thời,
điều hoà tốt việc lưu thông lương thực đến vùng cao, vùng sâu, vùng thiếu lương
thực.
3. Đẩy mạnh tiến độ thi công các
công trình thuỷ lợi cấp bách vùng ngập lũ ở đồng bằng sông Cửu Long trước mùa
mưa lũ năm 1998. Chỉ đạo chặt chẽ các biện pháp bảo vệ đê điều và phòng chống lụt
bão; có các phương án cụ thể để đối phó với những tình huống xấu nhất có thể xẩy
ra.
4. Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương cần nhanh chóng kiểm tra lại số diện tích các
cây công nghiệp, nhất là diện tích cây cà phê, cây điều, hồ tiêu... thiệt hại
do bị hạn nặng vừa qua. Nhà nước bảo đảm đủ vốn tín dụng ưu đãi cho nông dân
vay để chăm sóc và khôi phục diện tích các cây công nghiệp bị thiệt hại và cho
vay trồng mía ở những vùng đã có nhà máy đường.
5. Tiêu thụ nông sản gắn với
phát triển công nghiệp chế biến nông sản hướng vào đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao
hiệu quả sản xuất nông nghiệp là nhân tố có ý nghĩa then chốt, cần được quan
tâm đúng mức. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các
cơ sở chế biến nông sản và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Các Tổng công ty
kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm của Trung ương và các địa phương
cần tập trung xây dựng kế hoạch cụ thể về việc mở rộng thị trường tiêu thụ nông
sản trong và ngoài nước. Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông,
lâm, hải sản phù hợp với từng vùng, địa phương. Chính phủ hỗ trợ vốn đầu tư chế
biến, nhất là chế biến sâu nhằm nâng cao chất lượng một số mặt hàng xuất khẩu
như gạo, hải sản, chè, cà phê và các loại rau quả, thực phẩm khác...
6. Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư mua sắm tàu thuyền và ngư, lưới cụ
đánh bắt cá xa bờ. Các quốc doanh đánh bắt cá cần khẩn trương đối mới tổ chức,
quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động, làm tốt hơn vai trò nòng cốt cho lực lượng
ngư dân hoạt động trên vùng biển khơi, kể cả trong khâu đánh bắt, mua, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm và các dịch vụ liên quan. Tiếp tục cải tiến các thủ tục cho
vay, đẩy nhanh việc giải ngân các dự án đóng tàu đánh bắt cá. Chú trọng đúng mức
công tác đào tạo lao động kỹ thuật và quản lý cho nghề đánh bắt hải sản xa bờ.
Tăng cường công tác cảnh báo bão và cứu hộ trên biển.
7. Tổng kết việc tổ chức thực hiện
chương trình 327 và các mô hình kinh tế đồi rừng trong những năm qua để rút ra
những kinh nghiệm cần thiết cho việc xây dựng cơ chế, chính sách, cách thức tổ
chức, chỉ đạo phù hợp, bảo đảm hiệu quả cao trong việc khai thác 10 triệu ha đất
trống, đồi núi trọc. Trước mắt cần rút ra kinh nghiệm để chỉ đạo chương trình
trồng 5 triệu ha rừng. Triển khai kế hoạch khai hoang một số diện tích tập
trung ở Tứ giác Long Xuyên, Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước để điều chuyển số hộ
nông dân không có ruộng ở đồng bằng sông Cửu Long đến lập nghiệp tại các vùng
này. Đồng thời, khuyến khích mạnh mẽ nhân dân đầu tư khai thác đất trống, đồi
núi trọc để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi theo hình thức trang
trại.
8. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
tỉnh có biện pháp thiết thực để ngăn chặn tình trạng cháy rừng; xử lý nghiêm
các vụ vi phạm gây cháy rừng và chỉ đạo chặt chẽ việc trồng lại rừng bù vào diện
tích bị mất.
9. Uỷ ban nhân dân các tỉnh nắm
chắc tình hình thiếu đói trên địa bàn tỉnh và nhanh chóng có biện pháp cứu trợ
kịp thời, chỉ đạo việc trồng rau màu ngắn ngày để phòng chống đói giáp hạt.
10. Nâng cao trách nhiệm của chính
quyền các cấp trong việc giải quyết khiếu kiện của dân; thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở; bảo đảm an ninh, ổn định và đoàn kết nông thôn.
II. VỀ CÔNG
NGHIỆP VÀ SẮP XẾP DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Đối với những sản phẩm có sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài, nhất là những sản phẩm xuất
khẩu thuộc các thành phần kinh tế, được vay vốn tín dụng ưu đãi để đổi mới thiết
bị và công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh; có chính sách thưởng cho các
doanh nghiệp có nhiều hàng xuất khẩu hoặc xuất khẩu sản phẩm mới, công nghệ cao
và thưởng cho các tổ chức và cá nhân mở được thị trường xuất khẩu mới.
2. Tiếp tục đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu vừa cấp bách, vừa
cơ bản của nền kinh tế. Trong 6 tháng cuối năm 1998, cùng với việc thực hiện
các giải pháp chấn chỉnh và đổi mới hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, cần đẩy
nhanh việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời
chỉ đạo thực hiện thí điểm các hình thức cho thuê, chuyển sang hình thức sở hữu
tập thể hoặc bán một số doanh nghiệp không cần thiết phải giữ sở hữu của Nhà nước
theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ tư (khoá VIII).
Trong quý III năm 1998, Bộ Công
nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng,
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh công bố danh sách các doanh nghiệp
nhà nước dự kiến thực hiện cổ phần hoá và kế hoạch triển khai trong năm. Các Bộ,
ngành và các tỉnh, thành phố khác tiếp tục công bố danh sách các doanh nghiệp
nhà nước sẽ được thực hiện cổ phần hoá trong năm 1998 và chuẩn bị kế hoạch sắp
xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp năm 1999. Đồng thời khẩn trương triển khai thực
hiện Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ về việc
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần.
Chấn chỉnh và tăng cường đội ngũ
cán bộ quản lý doanh nghiệp có phẩm chất tốt và năng lực cho các doanh nghiệp
nhà nước; kiên quyết thay thế số cán bộ quản lý doanh nghiệp có sai phạm, năng
lực kém, không đảm đương được trách nhiệm.
4. Trong quý III năm 1998, Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải xây dựng xong
phương án tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp địa phương, bao gồm các giải
pháp kinh tế và các giải pháp về tổ chức, cán bộ trình Thủ tướng Chính phủ.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tổ
chức bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm làm đầu mối giải quyết hoặc báo cáo
lên cấp có thẩm quyền giải quyết kịp thời những ách tắc, khó khăn trong sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó đặc biệt
quan tâm việc duy trì sử dụng lao động và đẩy mạnh xuất khẩu. Các Bộ quản lý
ngành chịu trách nhiệm giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thuộc ngành và thẩm quyền của Bộ.
Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương chịu trách nhiệm tổng hợp và kiến
nghị với Thủ tướng Chính phủ các giải pháp xử lý những vấn đề tồn tại và phát
sinh tại các Tổng công ty 91 về cơ chế, chính sách, mô hình tổ chức quản lý
doanh nghiệp.
6. Đối với những doanh nghiệp
thuộc diện phải di chuyển ra khỏi thành phố, thị xã theo quy hoạch, được chuyển
nhượng quyền sử dụng mặt bằng sản xuất cũ để lấy vốn đầu tư xây dựng mặt bằng
nơi nhà máy chuyển đến.
7. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm việc cấp quyền sử
dụng đất cho nhà đầu tư mua quyền sử dụng đất của dân làm mặt bằng sản xuất,
kinh doanh hoặc chuyển đất ở sang làm mặt bằng sản xuất, phù hợp với quy hoạch
của thành phố, không phải nộp thêm tiền thuê cho Nhà nước và được quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp, thừa kế diện tích đó trong thời hạn
sử dụng.
8. Hoàn thiện để sớm ban hành
Nghị định của Chính phủ về "Chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra đối với
các doanh nghiệp". Các Bộ, ngành liên quan: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Thanh
tra Nhà nước, Bộ Tài chính khẩn trương xây dựng quy chế về kiểm tra, thanh tra
doanh nghiệp để thực hiện Nghị định nói trên và công bố công khai để nhân dân
và doanh nghiệp tham gia giám sát công tác này.
III. VỀ ĐẦU
TƯ PHÁT TRIỂN
1. Đối với nguồn vốn ngân sách,
Bộ Tài chính huy động tối đa các nguồn thu theo quy định của pháp luật, bảo đảm
đủ mức chi cho đầu tư phát triển như dự toán đã được phê duyệt. Không cắt giảm
vốn đầu tư theo kế hoạch đã phân bổ đầu năm cho các Bộ, ngành và địa phương. Bổ
sung thêm 1.450 tỷ đồng để bảo đảm vốn đối ứng đối với công trình, dự án có vốn
ODA, một số dự án thuỷ lợi và dự án đặc biệt cấp bách.
2. Giãn tiến độ và hoãn xây dựng
một số công trình nhóm A, B (như phụ lục kèm theo) thuộc nguồn vốn ngân sách tập
trung. Riêng đối với các dự án nhóm C, từ nay đến cuối năm dừng việc khởi công
mới các dự án đã ghi kế hoạch năm 1998. Thực hiện nghiêm túc Quyết định số
1179/1997/QĐ-TTg và Chỉ thị số 05/1998/CT-TTg; bảo đảm bố trí đủ 70% vốn cho
các dự án nhóm C có khả năng hoàn thành trong năm để sớm đưa các công trình này
vào sử dụng.
3. Không tiếp tục đầu tư mới các
dự án về kinh doanh khách sạn, bia, xi măng lò đứng, nhà máy đường nếu xét thấy
không trả được nợ, hoặc trả nợ trong thời hạn quá dài và đòi hỏi những điều kiện
đặc cách; xem xét hoãn khởi công và hoãn việc chuẩn bị khởi công các nhà máy xi
măng lớn do trong nước tự đầu tư, ít nhất cho đến năm 2000.
4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm rà soát và báo cáo Thủ tướng
Chính phủ phương án điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo tinh thần nêu trên chậm nhất
vào ngày 15 tháng 8 năm 1998. Những Bộ, địa phương không thực hiện đúng quy định
của Chính phủ thì các cơ quan quản lý vốn sẽ không cấp phát vốn và thanh toán.
5. Các dự án, công trình có khối
lượng thực hiện vượt mức khối lượng được giao trong kế hoạch năm trước, không
được bố trí thêm vốn kế hoạch năm 1998 để thanh toán.
6. Thực hiện đầy đủ các cam kết
của phía Việt Nam trong từng dự án ODA, bảo đảm đủ vốn đối ứng cho các chương
trình, dự án đã được ghi kế hoạch. Đẩy nhanh công tác xây dựng dự án, giải
phóng mặt bằng, chấn chỉnh công tác xét thầu, chọn thầu; Bộ Tài chính trình
Chính phủ sửa đổi những quy định về thuế tại Nghị định 87/CP ngày 5-8-1997 nhằm
giải quyết dứt điểm các vướng mắc về thuế liên quan đến nguồn vốn ODA để tăng tỷ
lệ giải ngân các nguồn vốn đã cam kết.
7. Cho phép xử lý linh hoạt tỷ lệ
góp vốn của bên Việt Nam trong các liên doanh ở giai đoạn đầu, khi các doanh
nghiệp Việt Nam ít vốn và nâng dần tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam lên khi có
điều kiện. Chấm dứt tình trạng bất kỳ doanh nghiệp, tổ chức nào có quyền sử dụng
đất đều trở thành đối tác trong liên doanh khi không có điều kiện quản lý kinh
doanh; Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện về
chuyên môn, kỹ thuật, cán bộ để tiến hành việc liên doanh với bên nước ngoài.
Trong quý III năm 1998, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ cơ chế
khuyến khích các nhà đầu tư trong nước, kể cả quốc doanh và các thành phần kinh
tế khác, liên kết, hợp vốn để liên doanh với nước ngoài, bảo đảm ưu thế cũng
như quyền bình đẳng thực sự của bên Việt Nam trong các liên doanh. Các doanh
nghiệp Việt Nam không được vay vốn nước ngoài với lãi suất cao để góp vốn vào
liên doanh.
8. Ngoài doanh nghiệp nhà nước,
cho phép các thành phần kinh tế khác được hợp tác đầu tư với nước ngoài đối với
các ngành, lĩnh vực không cấm hoặc không hạn chế. Cho phép thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh thí điểm dự án cho các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất xây
dựng nhà ở để bán và cho thuê.
9. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Ban quản lý Khu công nghiệp Trung ương và địa
phương, các Công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp có trách nhiệm tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đang hoạt động trong các khu công nghiệp khắc
phục khó khăn, duy trì việc sử dụng lao động Việt Nam, đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng
thời, cần chuyển trọng tâm vào hoạt động vận động đầu tư để lấp đầy diện tích
cho thuê; đối với các khu công nghiệp đang xây dựng cơ sở hạ tầng phải tuỳ thuộc
vào nguồn vốn đầu tư của từng khu (100% vốn nước ngoài, liên doanh với nước
ngoài, hoặc ta vay vốn tín dụng để đầu tư...), chỉ đạo, hướng dẫn các nhà đầu
tư xây dựng hạ tầng đến đâu, khai thác đến đó. Cần xem xét chặt chẽ việc cấp
phép thành lập các khu công nghiệp mới.
10. Cho phép các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về thị trường
xuất khẩu, được điều chỉnh tăng tỷ lệ nội tiêu đối với những sản phẩm ta vẫn phải
nhập khẩu, thị trường trong nước có nhu cầu, hoặc chuyển đổi mặt hàng kinh
doanh.
11. Xem xét cho một số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang gặp khó khăn về vốn, có nhu cầu và
có khả năng trả nợ, được vay vốn tại các Ngân hàng của Việt Nam. Ban hành các
quy định về cầm cố, thế chấp để doanh nghiệp FDI có thể vay vốn của các Ngân
hàng trong nước; hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đang thực sự khó khăn do khủng hoảng kinh tế khu vực, thị trường xuất khẩu bị
thu hẹp.
12. Trong quý III năm 1998, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư công bố danh mục các dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, dự kiến quy mô, công suất, đối tác, địa điểm, tiến độ thực hiện... của
các dự án để bảo đảm đúng chủ trương điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả
kinh tế - xã hội các dự án đầu tư.
IV. VỀ LĨNH VỰC
XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
1. Tiếp tục triển khai một cách
đồng bộ các chính sách khuyến khích xuất khẩu đã nêu trong Nghị quyết của Chính
phủ số 02/1998/NQ-CP, ngày 26-01-1998.
2. Đơn giản hoá các thủ tục hành
chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho xuất khẩu và nhập vật tư, thiết
bị máy móc, nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất, kể cả hàng gia công xuất khẩu.
Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan cần tăng cường công tác kiểm tra đối với các bộ
phận và công chức chịu trách nhiệm giải quyết các thủ tục liên quan đến xuất,
nhập khẩu.
Thành lập tổ công tác lâm thời của
Thủ tướng Chính phủ, do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan làm thường trực, các
Bộ có chức năng quản lý chuyên ngành về xuất, nhập khẩu cử thành viên tham gia.
Tổ có nhiệm vụ hoàn thành trong quý III năm 1998 việc rà soát và bổ sung, sửa đổi
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xuất, nhập khẩu theo hướng
đề cao trách nhiệm của các chủ hàng đối với chất lượng hàng nhập khẩu; xoá bỏ
những quy định không còn phù hợp, gây ách tắc hàng hoá tại các cửa khẩu; bảo đảm
hiệu lực quản lý Nhà nước đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động
xuất, nhập khẩu.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
việc kéo dài thêm thời hạn nộp thuế nhập khẩu trong 6 tháng cuối năm 1998 để giảm
bớt gánh nặng vay vốn của các doanh nghiệp.
4. Bộ Thương mại và Ngân hàng
Nhà nước chủ trì cùng các Bộ liên quan tìm hiểu khả năng ký thoả thuận về xuất,
nhập khẩu và thanh toán ở cấp Chính phủ đối với những nước ta có khả năng xuất
khẩu lớn, nhưng chưa ký các thoả thuận thương mại và còn có nhiều vướng mắc
trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu cũng như phương thức thanh toán. Cùng với
quá trình trên, cần tìm kiếm những hình thức tổ chức kinh doanh và phương thức
thanh toán phù hợp để sớm khắc phục các khó khăn, vướng mắc, mở rộng thị trường
xuất khẩu. Trên cơ sở đó, hướng dẫn, giúp đỡ một số doanh nghiệp lớn triển khai
thực hiện để rút kinh nghiệm.
Trước mắt, Bộ Thương mại và Ngân
hàng Nhà nước chủ trì cùng với các ngành giải quyết quan hệ thanh toán để sớm mở
rộng thị trường vào các nước SNG và Đông Âu. Bộ Thương mại cùng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn khẩn trương xây dựng đề án xuất khẩu nông sản, thực phẩm
vào Irắc và các nước Trung Đông. Cho phép Bộ Thương mại được trích một tỷ lệ từ
phí hạn ngạch hàng dệt may của EU để thành lập quỹ khen thưởng xuất khẩu, khuyến
khích các doanh nghiệp có khối lượng hàng xuất khẩu lớn, sản phẩm mới hoặc tổ
chức, cá nhân mở rộng hoặc tìm được thị trường xuất khẩu mới.
5. Trong quý III năm 1998, Ngân
hàng Nhà nước hình thành "Quỹ tín dụng xuất khẩu" để trợ giúp tài
chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
6. Bộ Tài chính áp dụng việc dán
tem thêm một số mặt hàng nhập khẩu khác mà trong nước đã sản xuất được với chất
lượng tốt.
7. Tiếp tục đẩy mạnh công tác chống
buôn lậu và gian lận thương mại.
V. VỀ TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ
1. Tiếp tục thực hiện các chủ trương
và giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết Trung ương lần thứ tư (khoá VIII) nhằm
lành mạnh hoá hệ thống tài chính - tiền tệ, bảo đảm các điều kiện cho tăng trưởng
kinh tế, xã hội; kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động đối
phó với tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.
2. Bảo đảm kế hoạch thu ngân
sách đã được Quốc hội thông qua. Trên cơ sở quy định của pháp luật, các địa
phương thu vượt dự toán thu ngân sách Trung ương, ngoài phần được hưởng theo
quy định hiện hành, được Chính phủ thưởng thêm một tỷ lệ để chi cho nhu cầu
phát triển của địa phương mình; những địa phương thu không đạt thì phải cắt giảm
chi tương ứng. Tăng cường quản lý thu, huy động tốt các khoản thu có khả năng
thu vượt để bù vào những khoản thu có thể giảm. Điều chỉnh linh hoạt và kịp thời
thuế suất hoặc phụ thu đối với một số mặt hàng nhập khẩu mà trong nước đã sản
xuất đủ hoặc thị trường chấp nhận được.
3. Giữ mức bội chi ngân sách nhà
nước đã được Quốc hội thông qua. Thực hiện nghiêm Pháp lệnh và Nghị định về thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí. Không sử dụng 10% chi thường xuyên đã giữ lại đầu
năm trong dự toán ngân sách năm 1998 theo Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội. Xiết chặt kỷ luật chi theo các quy định đã ban hành; cấp trên và cán bộ
lãnh đạo phải gương mẫu chấp hành và tăng cường kiểm tra cấp dưới. Đồng thời tiếp
tục rà soát để tiếp tục cắt giảm những khoản chi không cần thiết hoặc chưa thật
cấp bách trong 6 tháng cuối năm 1998. Từ nay đến cuối năm ngân sách, Chính phủ
không giải quyết bổ sung chi ngoài dự toán đã được Chính phủ duyệt cho các Bộ,
ngành và địa phương. 4. Đình chỉ khởi công xây dựng trụ sở làm việc, mua sắm
các phương tiện đắt tiền (ô-tô, điều hoà nhiệt độ, trang thiết bị khác...) của
các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội trong một thời gian nhất
định. Việc xây dựng, nâng cấp trụ sở của các tỉnh mới chia tách phải được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở kết quả kiểm tra tài sản, các cơ quan
hành chính sự nghiệp và chế độ trang bị tài sản, kiên quyết thực hiện việc điều
hoà các phương tiện, tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu.
5. Khẩn trương đánh giá, rà soát
lại công tác quản lý ngân sách xã, chấn chỉnh ngay những mặt yếu kém. Tăng cường
công tác chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện chủ trương huy động sức dân để xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn, các công trình phúc lợi công cộng trên cơ sở bảo đảm
mức huy động phù hợp với từng địa phương, cơ sở do tập thể Hội đồng nhân dân xã
dân chủ quyết định; thực hiện tốt thiết chế dân chủ ở cơ sở và quy chế công khai
tài chính ở cấp xã và các cơ quan Nhà nước. 6. Đẩy nhanh công tác xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật thi hành Luật về Ngân hàng Nhà nước, Luật về các Tổ
chức tín dụng và có kế hoạch triển khai thực hiện khi 2 Luật trên có hiệu lực
thi hành (01-10-1998).
7. Trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch
đã điều chỉnh, Ngân hàng Nhà nước rà soát lại các chỉ tiêu, tiến hành nghiên cứu
để bổ sung sửa đổi cơ chế và chính sách tiền tệ theo hướng đẩy mạnh huy động vốn
để tăng mức cho vay phát triển sản xuất kinh doanh; tiếp tục thực hiện chủ
trương sắp xếp, chấn chỉnh tổ chức và hoạt động hệ thống Ngân hàng thương mại;
chỉ đạo chặt chẽ và áp dụng một cách linh hoạt các công cụ điều tiết lưu thông
tiền tệ, ngoại hối nhằm kiểm soát lạm phát, thực hiện nghiêm ngặt quy chế quản
lý nợ nước ngoài, giữ vững cán cân thanh toán quốc tế, xử lý có hiệu quả nợ tồn
đọng và giảm dư nợ quá hạn. Cần khẩn trương hoàn thiện để ban hành Nghị định về
quản lý vay và trả nợ nước ngoài trong quý IV năm 1998.
8. Trong năm 1998, phấn đấu duy
trì mức lạm phát dưới 2 con số.
VI. VỀ XÃ HỘI
1. Khẩn trương hoàn thiện và triển
khai thực hiện chương trình giải quyết việc làm, hỗ trợ số lao động dôi dư từ
các doanh nghiệp do gặp khó khăn trong sản xuất, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, lao động từ nước ngoài trở về. Khuyến khích các doanh nghiệp và
người lao động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo nhiều việc làm,
ổn định lao động, giảm thất nghiệp.
2. Bộ Tài chính, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nghiên cứu, tổng kết và triển khai chương trình hỗ trợ cho số lao động
dôi dư trong quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt
là các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
3. Triển khai ngay kế hoạch thực
chương trình triển khai kinh tế, xã hội 1.700 xã đặc biệt khó khăn với bước đi
và cách làm phù hợp.
4. Tiến hành sơ kết việc thực hiện
Chỉ thị 660-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17-10-1995 về việc giải quyết tình
trạng di cư tự do, chuẩn bị ban hành các quy định mới để giải quyết một cách cơ
bản vấn đề "di dân tự do".
5. Tiếp tục thực hiện các Nghị định
của Chính phủ và các quy định khác về phòng chống ma tuý, mại dâm, xuất bản phẩm
độc hại; bảo đảm trật tự an toàn giao thông; thực hiện nếp sống văn minh. Chuẩn
bị đề án tổng thể về đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội.
6. Khẩn trương hoàn thành các đề
án triển khai chủ trương xã hội hoá lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá,
thể thao.
VII. CÔNG TÁC
CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
1. Để kịp thời phát hiện và xử
lý các vấn đề phát sinh trong quá trình chỉ đạo, điều hành ở các ngành, các cấp,
Chính phủ chủ trương áp dụng hình thức "giao ban định kỳ" với nội
dung thiết thực đối với từng khối công việc, từng cụm địa phương, nhằm nâng cao
hiệu lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế, xã hội trong thời gian
tới, cụ thể:
- Giao ban sản xuất công nghiệp
do Bộ Công nghiệp chuẩn bị nội dung;
- Giao ban sản xuất nông nghiệp,
thuỷ lợi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chuẩn bị nội dung;
- Giao ban về đầu tư do Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chuẩn bị nội dung; - Giao ban về xuất nhập khẩu do Bộ Thương mại chuẩn
bị nội dung;
- Giao ban về tài chính, tiền tệ
do Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị nội dung;
- Giao ban về việc làm do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội chuẩn bị nội dung;
- Giao ban về phòng chống tệ nạn
xã hội do Bộ Công an và Lao động - Thương binh và Xã hội chuẩn bị nội dung;
- Giao ban về khiếu kiện do
Thanh tra Nhà nước chuẩn bị nội dung. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần chăm lo đúng mức đến việc tháo gỡ khó
khăn, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh. Tại các cuộc giao ban; trong các báo cáo phải bao gồm tình
hình các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
2. Trong quý III năm 1998, công
tác xây dựng thể chế của Chính phủ tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu như:
thủ tục xuất, nhập khẩu; đất đai; đầu tư; tiền tệ và tín dụng; thuế; thành lập
doanh nghiệp; sắp xếp và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
3. Thực hiện nghiêm túc chế độ
thỉnh thị, báo cáo; bảo đảm thông tin kịp thời, chính xác trong các báo cáo của
bộ máy Nhà nước và các cơ quan thông tin đại chúng.
4. Thực hiện kết luận của Bộ
Chính trị số 147-TB/TW ngày 27-6-1998 "Về tình hình kinh tế - xã hội hiện
nay và các giải pháp lớn", cần khẩn trương chuẩn bị các chuyên đề sau đây
để trình Bộ Chính trị trong thời gian sắp tới:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì phối hợp với Tổng cục Địa chính và các ngành liên quan chuẩn
bị chuyên đề về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, bao gồm cả vấn đề
đất đai, phát triển trang trại.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì,
phối hợp với các ngành liên quan chuẩn bị chuyên đề về quan hệ sản xuất, phân
phối thu nhập.
- Ban Đổi mới doanh nghiệp Trung
ương chuẩn bị chuyên đề về đổi mới và sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Bộ Công nghiệp chuẩn bị chuyên
đề về chiến lược phát triển một số ngành công nghiệp cơ bản.
Các Bộ, ngành theo lĩnh vực mình
phụ trách, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định những nhiệm vụ cụ thể đã nêu
trên để triển khai Nghị quyết này.
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC DỰ ÁN NHÓM A, B THUỘC VỐN NGÂN SÁCH
PHẢI GIÃN TIẾN ĐỘ VÀ HOÃN KHỞI CÔNG
I. CÁC DỰ
ÁN NHÓM A:
1. Đường Láng - Hoà Lạc: Giãn tiến
độ xây dựng, không đặt mục tiêu phải hoàn thành năm 1998, chỉ thực hiện theo khả
năng vay vốn của Ngân hàng cổ phần Hàng hải, không ghi vốn ngân sách, sau năm
2000 sẽ hoàn trả dần vốn vay.
2. Đường xuyên á: Tính toán lại
để giảm vốn đã bố trí, xem xét tiến độ sau khi ký kết vay vốn nước ngoài và dự
án được quyết định.
3. Xa lộ Bắc Nam: Đã ghi vốn chuẩn
bị dự án, do khó khăn về vốn nên sẽ lùi thời gian khởi công (trước đây nêu mục
tiêu khởi công trước năm 2000).
4. Hồ Yazun hạ: Đến năm 1997 đã
thực hiện 75% tổng vốn, có công suất tưới 13.500 ha; hiện đã xong đầu mối và
kênh mương có thể tưới được 3.500 ha. Vốn đầu tư làm kênh mương còn khoảng 140
tỷ đồng. Chỉ làm theo khả năng khai thác, không đặt mục tiêu xong toàn bộ kênh,
mương trong năm 1999 hoặc năm 2000.
II. CÁC DỰ
ÁN NHÓM B:
1. Đường 14B, cần giãn tiến độ
đoạn từ cầu Hoà Nha đến Thạnh Mỹ.
2. Cảng Cửa Lò, tổng dự toán 139
tỷ đồng, đến hết năm 1997 đã đầu tư được 3 tỷ đồng, kế hoạch năm 1998 đã ghi 4
tỷ đồng. Cần hoãn xây dựng cầu vượt sang bờ đối diện.
3. Cảng Quy Nhơn, tổng dự toán
107 tỷ đồng, đã ghi kế hoạch 1 tỷ đồng, hoãn khởi công xây dựng kho.
4. Sân bay Đà Nẵng (Quốc phòng),
chưa duyệt tổng dự toán, đã ghi kế hoạch 4 tỷ đồng để làm công tác chuẩn bị đầu
tư, hoãn khởi công.
5. Hệ thống đường nhánh WB2, đã
ghi kế hoạch 20 tỷ đồng, hoãn khởi công (vốn ngoài nước năm 1998 chưa có).
6. Công trình lấn biển Bình Minh
3 (Quốc phòng), tổng dự toán 35 tỷ đồng, là công trình khởi công mới. Ghi kế hoạch
năm 1998 là 3 tỷ đồng, hoãn khởi công.
7. Trường Chính trị tỉnh Thái
Bình, tổng vốn 8,4 tỷ đồng, đã thực hiện 2 tỷ đồng, ghi kế hoạch 1998 1,9 tỷ đồng,
giãn tiến độ.
8. Trường Chính trị tỉnh Long
An, tổng vốn 8,6 tỷ đồng, đã thực hiện 3,4 tỷ đồng, ghi kế hoạch 1998 15 tỷ đồng,
giãn tiến độ.
9. Nhà hát Thành phố Hồ Chí
Minh, tổng vốn 25,2 tỷ đồng, đã thực hiện 5 tỷ đồng, ghi kế hoạch 1998 15 tỷ đồng,
giãn tiến độ.
10. Nhà biểu diễn Trung tâm văn
hoá tỉnh Cần Thơ, tổng vốn 9,6 tỷ đồng, đã thực hiện 1,5 tỷ đồng, ghi kế hoạch
1998 1,5 tỷ đồng, giãn tiến độ.
11. Trung tâm văn hoá tỉnh Quảng
Nam, chuẩn bị năm 1997, chưa thực hiện, ghi kế hoạch 1998 1 tỷ đồng, hoãn xây dựng.
12. Đền tưởng niệm Bến Được, tổng
vốn đầu tư 31 tỷ đồng đã thực hiện 12,5 tỷ đồng, ghi kế hoạch 1998 10 tỷ đồng,
giãn tiến độ.
Ngoài ra, sẽ xem xét hoãn khởi
công một số dự án xét thấy chưa có nhu cầu thực sự cấp bách để tập trung vốn
cho các công trình khác:
1. Nhà lớp học của Học viện Hành
chính Quốc gia, tổng dự toán 26 tỷ đồng, mới ghi kế hoạch 1,5 tỷ đồng.
2. Khu thí nghiệm Đại học Thuỷ lợi,
tổng dự toán 20 tỷ đồng, mới ghi kế hoạch 1,5 tỷ đồng.
3. Nhà điều hành Trung tâm (Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), mới ghi kế hoạch 6,9 tỷ đồng.
4. Trường trung học Hàng hải, tổng
dự toán 10 tỷ đồng, mới ghi kế hoạch 0,5 tỷ đồng.
5. Nhà hát ca múa nhạc, mới ghi
kế hoạch 2 tỷ đồng để chuẩn bị nhưng chưa đủ các điều kiện để triển khai.
6. Đài truyền hình Huế, tổng dự
toán 49 tỷ đồng, thực hiện hết năm 1997 được 0,5 tỷ đồng, đã ghi kế hoạch 4 tỷ
đồng.
7. Trung tâm dữ liệu tin học
Ngân hàng, chưa đủ các thủ tục, mới ghi kế hoạch 0,3 tỷ đồng để làm công tác
chuẩn bị đầu tư.
8. Trường Chính trị tỉnh Hà Nam,
tổng dự toán 14 tỷ đồng, đã ghi kế hoạch 3 tỷ đồng.
9. Nhà thi đấu và tập thể dục thể
thao Gia Lâm (Hà Nội), đã ghi kế hoạch 3 tỷ đồng.
10. Di tích núi Voi (Hải Phòng),
đã ghi kế hoạch 2 tỷ đồng.
11. Nhà làm việc Tỉnh uỷ Lâm Đồng,
đã ghi kế hoạch 2,5 tỷ đồng.